Không chỉ bản thân tôi bất ngờ, mà đến ngay cả những người cùng đi trong đó có cả người sinh ra và lớn lên, có người từng công tác lâu năm ở vùng đất Lạc Thuỷ cũng bất ngờ khi được nghe Đại tá Nguyễn Văn Sơn, Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện kể về Nghĩa trang liệt sỹ K34 (người dân vẫn hay gọi là Nghĩa trang liệt sỹ thời kỳ chống Pháp) tại xã Liên Hòa, huyện Lạc Thủy.
Nghĩa trang liệt sỹ này, theo như ông Sơn kể thì trước đó đã từng nghe nói. Nhưng gần đây trong quá trình đi khảo sát địa điểm tổ chức Diễn tập khu vực phòng thủ, ông mới có dịp đến thắp hương cho những liệt sỹ còn nằm lại. Đại tá Sơn chia sẻ: “ Khi đến nơi tớ cũng hơi bất ngờ. Nghĩa trang này đã được UBND huyện Lạc Thủy trích kinh phí để tôn tạo, tu sửa khang trang, sạch đẹp. Nhưng cái bất ngờ lớn hơn đó là hầu hết các phần mộ ở đây đều ghi: Liệt sỹ Chưa biết tên”.
Từ những thông tin ít ỏi của Đại tá Nguyễn Văn Sơn, chúng tôi tìm về xã Liên Hòa. Theo ông Phan Thế Thức, Chủ tịch Hội CCB xã cho hay: “Hiện nay ở thôn Liên Ba vẫn còn một bà cụ tên là Trần Thị Thu, 85 tuổi, là người biết rõ nhất về những liệt sỹ đang yên nghỉ tại đây. Bởi hồi còn trẻ, cụ Thụ chính là người được chọn để tải thương từ bến Cáy (Liên Hòa) về chữa trị tại đây và cụ cũng là một trong những người trực tiếp đưa những người hy sinh đi an táng tại nghĩa trang này.
Cụ Thụ ngày ngày đến dọn cỏ tại nghĩa trang
Đến bây giờ, chỉ duy nhất một mình cụ còn sống. Đó là thông tin cực kỳ quý giá khi chúng tôi còn chưa biết việc tìm hiểu thông tin về Nghĩa trang liệt sỹ K34 phải bắt đầu từ đâu. Theo sự chỉ dẫn của ông Thức, chúng tôi theo con đường liên thôn của xã tìm về khu nghĩa trang và tìm về ngôi nhà nhỏ có bà cụ Trần Thị Thụ sinh sống. Theo con đường, Nghĩa trang K34 dần hiện ra, nổi bật giữa những vườn cây ăn quả xanh ngút và chòm xóm với những nếp nhà yên vui của xóm Liên Ba.
Gặp cụ Thụ ở nhà người quản trang Trần Văn Mạnh khi cụ vừa đi bán rau ngoài chợ về. Đưa chúng tôi sang nghĩa trang, với chất giọng sang sảng, trí nhớ còn tốt, cụ bảo: "Nghĩa trang K34 này có tất thảy 270 ngôi mộ. Trong đó, có 268 chiến sỹ du kích và 2 dân công hoả tuyến. Tất cả đều là người ở các tỉnh vùng đồng bằng như Nam Định, Hà Nam, Hải Phòng, Hà Đông, Ninh Bình, Hà Nội được đưa về đây chữa trị theo đường sông Bôi qua bến Cáy. Do vậy, trong số 270 ngôi mộ ở nghĩa trang này, không có ai là người địa phương. Tuy nhiên, do điều kiện lúc đó còn rất khó khăn về thuốc men và điều kiện vệ sinh nên đã nằm lại đây. Họ hy sinh rải rác trong khoảng thời gian từ năm 1949 - 1953".
Giữa cái nắng gắt, bóng cụ Thụ nhỏ quắt, cùng ông quản trang với mái đầu bạc trắng vin vào từng bia mộ lầm lũi dọn dẹp những chân nhang còn vương vãi, chỉnh lại từng bát hương cho ngay ngắn ở từng phần mộ. Hỏi chuyện, chúng tôi được chị Nguyễn Thị Năm, có vườn ngay sát khu nghĩa trang cho biết: "Các bác nằm ở đây thiêng và tình cảm lắm. Lâu lâu, có việc gì cũng hay “về” báo mộng cho chúng tôi biết. Thế nên, chúng tôi cũng thấy gần gũi, thân tình. Thường thì mỗi khi vào quét dọn trong nghĩa trang, chúng tôi cũng hay trò chuyện để các bác ấy thêm ấm lòng".
Chung một dòng tên
Cụ Thụ kể: Sau ngày toàn quốc kháng chiến, nhân dân ở khắp nơi cùng đứng dậy tham gia các đội du kích đánh giặc. Các phong trào đấu tranh vũ trang diễn ra ngày càng nhiều. Trong quá trình chiến đấu, ta cũng không tránh khỏi thương vong. Để có địa điểm điều trị cho thương binh đảm bảo an toàn, bí mật. Năm 1949 Trung ương đã chọn và đưa Trạm điều trị K34 về đặt tại xã Liên Hòa để cứu chữa thương binh.
Sau khi được đưa về đây, Trạm đã tiếp nhận thương binh từ các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hà Đông... Do thiếu thốn về thuốc men, điều kiện vệ sinh kém nên việc điều trị thương binh cũng gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, số thương bị hy sinh ngày càng nhiều. Tính từ năm 1949 đến năm 1953, tại trạm K34 đã có 270 thương binh đã hy sinh. Những người hy sinh hầu hết còn rất trẻ, có người thì mới 18 tuổi, có người chưa có gia đình, người thì mới cưới... Các hoàn cảnh này đều thương lắm. Như một cô dân công khi đi thồ gạo tiếp tế cho chiến dịch Điện Biên Phủ, qua đây bị máy bay địch ném bom, bị thương và được đưa về K34 chữa trị nhưng rồi cũng hy sinh. Khi hy sinh, cô ấy đang mang thai được 3 tháng.
Được biết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, lo sợ máy bay Mỹ đến ném bom sẽ làm mất dấu những ngôi mộ liệt sỹ ở Nghĩa trang K34, những người dân trong xóm đã vẽ sơ đồ, ghi lại thông tin của từng phần mộ rồi giao cho Xã đội trưởng giữ. Tuy nhiên, qua một thời gian dài thiên tai địch họa, tấm sơ đồ đó đã bị thất lạc.Cũng theo cụ Thụ, những ngôi mộ liệt sỹ ở đây không phải là không có tên. "Khi chúng tôi chôn cất các liệt sỹ thì đều có đánh dấu, tên tuổi, quê quán, ngày tháng hy sinh đầy đủ cả. Nhưng qua một thời gian dài và 3 lần di chuyển, cải tạo, nâng cấp vào các năm 1959 - 1960, 1987 - 1988 và năm 2013 thì cũng đã mất dấu, thất lạc gần hết. Theo đó, hiện nay, trong số 270 mộ liệt sỹ ở đây, chỉ còn 31 ngôi là có đầy đủ tên tuổi, thông tin quê quán. Số còn lại thì được đánh dấu theo số thứ tự" - Cụ Thu chia sẻ.
Bần thần ngồi trước những bia mộ liệt sỹ, đôi mắt cụ Thụ cứ rưng rưng như muốn khóc. Cụ bảo giờ thì chẳng biết ngôi mộ nào là của ai. Nhưng trong ký ức của cụ, vẫn hằn sâu những khuôn mặt trẻ trai, thanh thản và nhẹ nhàng của những người đã hy sinh khi ở Trạm điều trị K34. Bởi lẽ, trong số gần 300 liệt sỹ hy sinh ở đây thì có đến hơn một nửa số liệt sỹ là do chính tay cụ đưa đi chôn. Thế nên cụ vẫn còn nhớ lắm!
Có một điều đặc biệt, nói như quản trang Trần Văn Mạnh thì dù những ngôi mộ liệt sỹ ở Nghĩa trang K34 là người ở nơi khác, không có người thân thích ở địa phương, nhưng đều “có chủ”. Ngay từ khi được di chuyển về đây, xã đã giao cho mỗi nhà chăm sóc 3 ngôi mộ.
Do vậy, những ngôi mộ ở đây được chăm sóc, hương khói đầy đủ và luôn ấm "hơi người". Theo ông Mạnh, thời kỳ những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, để kiếm được một que hương cúng tổ tiên trong những ngày tết còn khó khăn. Nhưng người dân vẫn luôn cố gắng có nén hương thắp cho các anh, các bác. Hành động dù nhỏ, nhưng thể hiện sự tri ân lớn lao với những người đã ngã xuống vì đất nước.
Nguồn tin: An ninh Thủ đô
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự