Kể từ tết cổ truyền đến nay, một số người dân ở TP HCM và các tỉnh miền Đông Nam Bộ đi hành hương về vùng thánh địa Thất Sơn (tỉnh An Giang) trở về kháo nhau rằng: Ở ấp Sà Lôn (xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) đất bỗng dưng nứt toác ra để lộ một hộp gỗ bọc giấy đỏ chứa 2 viên ngọc Xá Lợi của Phật.
Ban đêm, ngọc sáng đến mức có thể soi đường đi. Ai đang bệnh nan y chạm tay vào sẽ hết bệnh ngay. Những người khỏe mạnh, chạm tay vào sẽ gặp may mắn như trúng số, mua may bán đắt, kinh doanh phát đạt.
Bàn thờ và di ảnh Phật Trùm. Do quá nhiều người đến xin rờ mó ngọc, người nhặt được đã ném viên ngọc xuống giếng. Kể từ đó, nước giếng có công năng như viên ngọc.
Ai uống hoặc tắm nước giếng đó sẽ hết bệnh hoặc may mắn (?!). Mỗi ngày có hàng trăm người lũ lượt kéo nhau về xin nước giếng để dành uống trị bệnh.
Huyền tích một vị Phật sống
Lần theo lời đồn, chúng tôi tìm đến tận ấp Sà Lôn. Đó là một khu dân cư của người dân tộc Kh'mer sinh sống. Đầu con đường dẫn vào ấp là chiếc cổng chào to đùng xây theo kiểu mái chùa Kh'mer.
Bên cạnh chiếc cổng là một căn tha la. Với người Kh'mer, tha la là một căn chòi nhỏ luôn cất cạnh những chiếc cổng để dành cho khách bộ hành nghỉ chân, tránh nắng hoặc ngủ qua đêm nếu lỡ đường.
Tại căn tha la, một chú bé Kh'mer tên K'po khoảng 12 tuổi, hồ hởi giới thiệu bằng tiếng Việt lơ lớ: "A dúi! Hai hòn ngọc của Phật linh lắm chú à. Ổng chết ngắc từ mấy trăm năm trước nhưng hai hòn… vẫn còn nguyên. Không có nứt đất đâu. Người ta nói láo đó.
Mấy tháng trước, cháu của ông Phật nằm ngủ thấy Phật về kêu đào đất dưới bàn thờ sẽ thấy. Cháu ông Phật đào lên thấy đó. Ai rờ ngọc sẽ hết bệnh cảm ngay. Ai rờ được hơn 2 lần sẽ trúng số. Cháu bị đau răng, rờ vô hết đau răng. Lúc trước, cháu rờ mỗi ngày luôn. Chú không tin vô rờ thử đi. Chú cho cháu xin tiền mua cơm ăn".
Chúng tôi lờ việc cho tiền, tiến sâu vào con đường độc đạo đã được bê tông hóa. Gần cuối con đường một chiếc cổng chào xây theo kiểu cổng đình Việt xưa hiện ra. Tuy nhiên, 2 "cánh gà" của chiếc cổng là biểu tượng rắn thần Naga (Một linh vật của tín ngưỡng Kh'mer). Trên chiếc cổng có tấm biển xi măng nền vàng vẽ hàng chữ đỏ bằng song ngữ Kh'mer - Việt: Phủ thờ Tà Ponl.
Đi khỏi chiếc cổng, trước mắt chúng tôi là một ngôi nhà đúc mái nhọn lợp tôn giả ngói, tường xây phẳng. Ngôi nhà không theo một kiến trúc nào cả. Trên chiếc sân rộng bên ngoài có khoảng 30 người già, trẻ em ngồi chờ… xin tiền. Tất cả họ đều là dân cư địa phương. Chú bé đón chúng tôi ở căn tha la cũng có mặt trong số người ăn xin đó.
Chúng tôi bước vào ngôi nhà. Nội thất ngôi nhà chia làm 3 gian thờ. Tiền điện là bàn thờ Phật tổ Thích Ca. Trung điện là bàn thờ có di ảnh "đức Phật Trùm". Hậu điện là bàn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Phật Địa Mẫu, Phật Quan Âm và bàn thờ một số vị hậu hiền (có lẽ là thủ từ quá cố).
Ở phần hậu điện còn có một ụ đất gò mối cỡ bằng chiếc mâm được bảo vệ bằng lồng kính giống như kiểu nhà bảo tàng trưng bày hiện vật. Chỉ có điều, "hiện vật" này có thêm bát hương và chiếc thùng xin "tiền công đức".
Qua di ảnh Phật Trùm và ụ gò mối, chúng tôi nhận ra ngôi phủ thờ Tà Ponl này chính là điện thờ ông Phật Trùm, còn gọi là ông "đạo gò mối" hoặc ông "đạo đèn".
Căn cứ vào những tài liệu nghiên cứu về tôn giáo Nam Bộ thì Phật Trùm có tên thường gọi là Tà Pol nhưng trên cổng phủ thờ lại ghi là "Tà Ponl", trên bia mộ lại ghi là "Tà Pônh". Không có tài liệu nào nhắc đến ngày, tháng, năm sinh của ông mà chỉ có nêu năm mất là 1875.
Trong quyển "Bonzes, pagodes et Sociétés Secrètes en Cochinchine" xuất bản năm 1928 của nhà nghiên cứu Pháp Coulet có đoạn ghi chép về Phật Trùm. Nhà nghiên cứu Nam Bộ Nguyễn Văn Hầu cũng dành hẳn một chương viết về Phật Trùm trong quyển "Thất Sơn mầu nhiệm", xuất bản trước năm 1975.
Những tài liệu đó cho biết, ông Pol (tạm gọi như thế - PV) là người Việt Nam thuộc dân tộc thiểu số Kh'mer, sinh ra và lớn lên tại làng Sà Lon. Do nhà nghèo nên ông không được đi học, hoàn toàn dốt nát và chỉ sống bằng nghề làm thuê.
Năm 1866, ông Pol đột ngột bị bệnh nặng hôn mê suốt mấy ngày. Mọi người ngỡ ông không thể qua khỏi. Đột ngột ông Pol tỉnh dậy và tự xưng là Đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên tái sinh. Có khi ông xưng là "trùm của các Phật" nên cư dân địa phương gọi là Phật Trùm.
Đó là thời điểm căn cứ kháng Pháp của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực ở Kiên Giang đang chiêu mộ nghĩa sĩ yêu nước và Quản cơ Trần Văn Thành cùng Bổn sư Ngô Tự Lợi - Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đang xây dựng hệ thống căn cứ kháng chiến chống Pháp ở Láng Linh - Bãi Thưa. Ngô Tự Lợi và Trần Văn Thành đều là đồng môn của Đức Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên - người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Điều lạ là sau khi khỏi bệnh, ông không "dốt" nữa mà biết làm thơ răn đời và rao giảng giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương bằng tiếng Việt. Ông bắt đầu trổ tài trị bệnh cho dân nghèo bằng cách dùng sáp ong đốt lên cho bệnh nhân ngửi hơi khói. Vậy mà nhiều người hết bệnh nên ông được dân trong vùng gọi là ông "đạo đèn".
Thỉnh thoảng, ông cũng rời làng Sà Lon đi bộ hàng trăm cây số đường rừng núi để sang núi Tà Lơn (núi Bokor, thành phố Kampot, Campuchia) tu luyện. Có tài liệu cho rằng, thật ra ông là người quy tựu lực lượng dân tộc Kh'mer hậu thuẫn cho Trần Văn Thành. Kể từ khi xưng danh là Phật trị bệnh, ông thu hút được hàng ngàn tín đồ Kh'mer.
Mục đích ông sang Tà Lơn để tìm vị trí xây dựng căn cứ bí mật đề phòng căn cứ Láng Linh - Bãi Thưa bị vỡ. Nhờ vậy, sau này, khi căn cứ Láng Linh - Bãi Thưa bị vỡ, Trần Văn Thành tử trận, ông Cử Đa - một phó tướng, cố vấn quân sự cho Trần Văn Thành và Ngô Tự Lợi đã đào thoát sang Tà Lơn có chỗ ẩn trú một thời gian.
Nếu cho rằng ông Cử Đa là người khai hoang cất chùa ở núi Bokor thì Phật Trùm chính là người dọn mở phi lộ.
Khi căn cứ Láng Linh - Bảy Thưa bị vỡ, ông bị Pháp truy lùng. Để ẩn tránh, ông trở về làng Sà Lon khoét lỗ trong một ụ mối ngoài đồng vắng để ẩn trú. Vì vậy, có người gọi ông là ông đạo "gò mối".
Năm 1873, khi căn cứ kháng chiến của Ngô Tự Lợi và Cử Đa ở Núi Dài bị thất thủ trước sức tấn công khủng khiếp của quân Pháp, ông bị bắt cầm tù. Trong thời gian 2 năm bị giam cầm, ông bị cai ngục buộc chăn heo để làm nhục.
Vì không có chứng cứ quy kết ông có liên quan đến phong trào kháng chiến, Pháp đành thả nhưng cấm hành đạo và phải trình diện hàng tuần. Vừa ra khỏi tù, ông định đào thoát sang Tà Lơn.
Trước khi đi, ông bảo người thân đi báo tin cho cò Pháp là ông đã chết đột ngột vì bệnh. Tên cò Pháp không tin ông chết nên bảo rằng sẽ đến nhà xem đám ma của ông. Nghe người nhà về báo lại, ông mua quan tài về rồi chui vào nằm. Tên cò Pháp gian ác đến nơi mở quan tài ra khám.
Biết ông giả vờ chết, tên cò Pháp đã buộc người nhà ông đem quan tài đi chôn ngay. Sau khi chôn xong, tên cò Pháp cắt cử người canh ngôi mộ ông suốt mấy ngày. Thế là ông chết thật dưới nấm mộ đó. Theo giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương, ngôi mộ ông bằng phẳng, không đắp mô nấm. Ngày 13/3 (âm lịch) được xem là ngày ông viên tịch.
Hiện nay, ngôi mộ ông vẫn còn tọa lạc cách phủ thờ khoảng 300 mét trên sườn núi Sà Lon.
Sự thật về ngọc Phật
Thấy chúng tôi vào chụp ảnh, bà Neang Bek (75 tuổi) là thủ từ và con trai là anh Chau Nhim (53 tuổi) ra chào và tiếp chuyện chúng tôi ngay tại hậu điện. Cả hai phát âm tiếng Việt không chuẩn dấu nhưng vốn từ phong phú không thua người Kinh. Bà Bek tự giới thiệu là hậu duệ đời thứ 5 của Phật Trùm.
Phủ thờ là ngôi nhà ở của gia đình họ. Hai mẹ con giành nhau kể chuyện linh hiển của Phật Trùm, chuyện viên ngọc Phật và giếng thánh biết trị bệnh. Mặc dù kể cùng lượt nhưng câu chuyện về viên ngọc của hai người "chênh" nhau xa lắc.
Bà Bek kể, cách nay vài tháng, con trai út của bà là anh Chau Nhuol ngủ mơ thấy Phật Trùm về bảo anh đào nền nhà dưới bàn thờ lấy một cặp ngọc mà Phật chôn giấu cách nay hơn 150 năm.
Anh Chau Nhuol đã giữ bí mật đó rồi nửa đêm hôm sau bí mật âm thầm đào nơi Phật chỉ sâu xuống 50 cm. Anh phát hiện nơi đó có một hộp gỗ bọc vải đỏ đã mục nát. Bên trong hộp gỗ là 1 cặp ngọc to như trứng gà màu trắng đục.
Anh Chau Nhim cướp lời bà Bek kể rằng, cách nay 3 năm, em trai út Chau Nhuol của anh ngủ mơ thấy Phật chỉ dưới cái giếng làng do Phật đào năm xưa lấy nước cho dân xài có 3 viên ngọc. Lúc đó gia đình anh đang thuê thợ khơi vét giếng và xây kè đá. Nửa đêm Châu Nhuol lẻn ra đó tìm và phát hiện có 3 viên ngọc màu tím.
Hai viên đá được cho là ngọc Phật chỉ là đá mắt mèo. Nói đến đó thì 2 mẹ con bà Bek cùng thống nhất câu chuyện như sau: Cách nay 3 năm, Chau Nhuon ngủ mơ thấy Phật Trùm hiện về chỉ 2 địa điểm chôn giấu ngọc quý. Nửa đêm Châu Nhuol bí mật đào đất dưới bàn thờ phát hiện 2 viên ngọc màu trắng và ra giếng làng đào được 3 viên ngọc màu tím.
Tất cả 5 viên ngọc đều to bằng quả trứng gà. Châu Nhuol đào được ngọc nhưng giấu cả gia đình. Một lần thu dọn đồ đạc, bà Bek trông thấy. Khi ấy, Chau Nhuol mới nói thật với mẹ.
Bà Bek đem ngọc đi khoe với xóm giềng. Cả xóm xúm lại xem. Trong số đó có cả những người bị bệnh lâu năm. Sau khi xem ngọc xong, những người bị bệnh đều khỏe mạnh. Nghe tin đó, rất nhiều người từ nơi khác lũ lượt đến xin sờ ngọc Phật để trị bệnh. Chỉ có 5 viên ngọc nhưng hàng trăm người đến xin sờ, bà Bek bàn với các con đem tất cả ngọc thả xuống giếng để bá tánh sử dụng nước trị bệnh.
Anh Chau Nhim chỉ hướng đi để chúng tôi tận mục sở thị giếng thánh. Giếng thánh cách phủ thờ khoảng 100 mét, nằm ven cánh đồng lúa mênh mông. Đó là cái ao rộng khoảng 250m2 đã được kè đá, xây hàng rào rất sạch sẽ. Ở một góc ao có đặt máy bơm nước vào chiếc bồn chứa loại 2m3.
Khi chúng tôi đến nơi vẫn có người đang đến ao múc nước đem về trị bệnh đau đầu kinh niên. Mặc dù có bồn chứa nhưng họ vẫn múc trực tiếp từ dưới ao. Sau khi múc nước, họ đều đến chiếc bàn thờ đặt sẵn đốt nhang khấn vái rồi quỳ lạy tạ ơn. Một nhóm 7 chú bé Kh'mer túc trực tại chỗ để đeo bám xin tiền.
Một chú bé tên Puok, 14 tuổi, sau khi nhận được tiền "mua tin" của chúng tôi đã nói thật: "Cháu chỉ thấy có 2 viên ngọc. Họ nói 5 viên là xạo đó. Cháu có sờ thử. Đó là ngọc thật. Nó được bán ở chợ nhiều lắm". Chú bé bí mật cho chúng tôi xem bức ảnh bà Bek đang khoe 2 viên "ngọc".
Qua bức ảnh, chúng tôi nhận ra đó chỉ là một loại đá thạch anh trắng mà giới buôn đá phong thủy gọi là đá mắt mèo. Puok còn cho biết, hồi năm ngoái, ông bí thư huyện Tri Tôn có đến xem "ngọc" và cấm không cho phao tin đồn nhảm nên bà Bek không dám đem "ngọc" ra khoe nữa.
Tuy vậy, những người nhẹ dạ cả tin ở các địa phương khác vẫn đến để xin nước giếng về uống trị bệnh.
Từ khi khách hành hương đổ xô đến xin nước giếng, cả xóm không phải đi làm thuê nữa mà kéo nhau đến phủ thờ ngồi chờ xin tiền người hành hương phát thí.
Mọi chuyện đã rõ. Việc nhặt được ngọc Phật chỉ là chiêu thu hút người hành hương của con cháu ngài Phật Trùm.