Tấm bia giết giặc
Ông Nguyễn Thư Thái, SN 1938, khu Nam Thọ, phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, Quảng Ninh là người còn nắm rõ những bí mật về tấm bia lạ này. Ông Thái dẫn chúng tôi ra đình Trà Cổ để khảo sát tấm bia lạ.
Ông Thái cho biết: “Khi đội thợ đang đào móng đình trong quá trình thực hiện dự án nâng cấp trùng tu, tôn tạo đình Trà Cổ, họ đã phát hiện một tảng đá dài 1,5m, rộng 30cm, dày 12cm. Điều bất ngờ là những ký tự lạ được khắc trên tảng đá: Một hình mỏ neo và các dòng chữ và số: 1900: TL SON: 44860: 1895, 1903 =:1980, TE EL LS, BB75 40”. Có rất nhiều những lời đồn đoán xung quanh những ký tự lạ này. Có người cho rằng, có thể đó là dấu tích của những người tiền sử hoặc người ngoài hành tinh.
Tấm bia giết giặc
Ông Nguyễn Thư Thái, SN 1938, khu Nam Thọ, phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, Quảng Ninh là người còn nắm rõ những bí mật về tấm bia lạ này. Ông Thái dẫn chúng tôi ra đình Trà Cổ để khảo sát tấm bia lạ.
Ông Thái cho biết: “Khi đội thợ đang đào móng đình trong quá trình thực hiện dự án nâng cấp trùng tu, tôn tạo đình Trà Cổ, họ đã phát hiện một tảng đá dài 1,5m, rộng 30cm, dày 12cm. Điều bất ngờ là những ký tự lạ được khắc trên tảng đá: Một hình mỏ neo và các dòng chữ và số: 1900: TL SON: 44860: 1895, 1903 =:1980, TE EL LS, BB75 40”. Có rất nhiều những lời đồn đoán xung quanh những ký tự lạ này. Có người cho rằng, có thể đó là dấu tích của những người tiền sử hoặc người ngoài hành tinh.
Ông Thái cho rằng, hầu hết những lời đồn đoán đó là nhảm nhí, không có cơ sở để chứng minh. “Tôi là những người già nhất ở trong làng. Bố mẹ tôi đã kể lại những câu chuyện có thật về tên lính Pháp bị chết tại đình Trà Cổ. Tấm bia được phát hiện tại đây đã ghi lại danh tính của tên lính mang quốc tịch Pháp (thuộc Quân chủng Hải quân Pháp). Những người lính này đã đến Trà Cổ vào tháng 10 năm 1900 và chết tại đình vào ngày 01/11/1900. Hiện, hài cốt của tên lính này vẫn được lưu giữ tại địa phương.
Chiếu theo đó, thời gian mà người Pháp đang lùng sục khắp nơi để bắt cán bộ hoạt động cách mạng cũng trùng với năm 1900. Khi bị truy quét quá gắt, các đồng chí đã vào đình để trốn. Tốp lính chạy đến và bao vây đình. Một tên lính đã xông vào đạp cửa đình. Hắn đã bị cánh cửa đẩy ngược trở lại và ngã đập đầu vào một tảng đá dài. Không hiểu tại sao chỉ bị ngã rất nhẹ nhưng đã khiến tên lính bị tử vong.
Những tên lính khác nhìn thấy, liền lùi ra xa, không dám xâm phạm vào cửa đình. Tên chỉ huy ra lệnh cho người dân khắc những thông tin liên quan đến tên lính này lên tảng đá đó. Dân làng buộc phải tuân lệnh theo chúng. Khi chôn cất tên lính xong, chúng cũng bỏ đi. Và, các chiến sỹ cách mạng đã được an toàn.
Hé lộ những người đầu tiên đến khai hoang vùng biên
Toán lính đi khỏi. Người dân lại khắc thêm hình mỏ neo ở phía trên những thông số về tên lính. Việc khắc thêm ký hiệu hình mỏ neo có ngầm ý rằng, bất cứ tên địch nào dám xâm phạm đến mảnh đất này đều phải nhận kết cục bi thảm. Người dân đã dựng tảng đá trước cửa đình như một lời cảnh báo cho những thế lực ngoại xâm.
Ông Thái kể: “Đình Trà Cổ là nơi thờ những người đầu tiên đến khai hoang vùng đất này cách đây hàng trăm năm. Họ là 12 gia đình dân chài quê ở Đồ Sơn (Hải Phòng). Trong một chuyến đi biển, khi thuyền chạy ra khu vực biển Trà Cổ, không may bị đắm. Họ bị bão dạt vào bãi biển Trà Cổ”. Trước đây, Trà Cổ chỉ có cồn bãi hoang vu và bùn lầy. Cuộc sống của người ở nơi này gian khổ.
Họå cho rằng: “Ở đây ăn bổng lộc gì/ Lộc sim thì chát, lộc si thì cằn”. Một số gia đình đã không chịu được khổ nên tìm đường trở về quê. 6 gia đình còn lại yêu mến cảnh đẹp nơi đây, thấy được tiềm năng đầy hứa hẹn của miền đất mới, họ quyết định ở lại định cư và lập nghiệp. Họ động viên nhau rằng: “Ở đây vui thú non tiên/ Rạng ngày lọc nước lấy tiền nuôi nhau”.
Những người ở lại đã dựng lên những cái chòi tạm bợ để che nắng che mưa. Họ cùng nhau tạo lập cuộc sống ở vùng đất mới. Họ đã dùng ký tự hình chiếc mỏ neo để nhận diện, thông báo, hợp tác săn bắt hái lượm và bảo vệ nơi sống. Không có thuyền để đi biển, họ đi nhặt ốc, bắt cáy để sống qua ngày. Rồi, họ đã tính đến chuyện ổn định cuộc sống lâu dài. Công cuộc khai hoang bắt đầu diễn ra.
Ngày ngày, họ chặt sú, đắp bờ, thau chua rửa mặn. Họ đã cải tạo dần những ô đất cằn cỗi thành những vườn tược màu mỡ để trồng khoai, cấy lúa. Với đức tính cần cù nhẫn nại, họ đã khai phá nơi đây thành vùng đất trù phú. Con cháu họ lớn lên, sinh con đẻ cái và lập nghiệp. Chẳng bao lâu sau, nơi này đã trở thành một vùng đất sôi động. Họ lấy hai tên làng Trà Phương và Cổ Trai (Đồ Sơn) ghép lại thành địa danh Trà Cổ như bây giờ.
Khi cuộc sống vật chất khấm khá, người Trà Cổ vẫn không quên tổ tiên. Họ luôn nhớ về những dòng họ ở quê gốc, đặc biệt là công ơn của những người đầu tiên khai phá ra mảnh đất này. Ngôi đình Trà Cổ được dựng lên như một minh chứng cho sự biết ơn đó.
Nhà sử học Đỗ Văn Ninh cho rằng: “Đình Trà Cổ còn lưu giữ lại được nhiều chứng cứ thể hiện tinh thần dũng cảm chống phong kiến của những người dân nơi đây. Trên bức hoành phi tại đình có khắc dòng chữ “Địa cửu thiên trường” có nghĩa là đất lâu, trời dài – ca ngợi sự bền vững của đất trời. Đáng chú ý là bức hoành phi bên trái đề dòng chữ “Dân đức quân hậu” có nghĩa là dân đức độ, vua nhân hậu. Đó là ý nghĩa phản phong tế nhị và sâu xa. Người Trà Cổ đã đảo lộn trật tự trời – đất, vua – dân. Họ đã chiến thắng những quy luật khắc nghiệt của tự nhiên.
Những hiện tượng tự nhiên kỳ lạ
Ông Thái cho biết: “Mặc dù phường Trà Cổ nằm cạnh vùng biển nước mặn chát, nhưng người dân vẫn có thể đào xuống đất liền bờ biển để lấy nước ngọt sinh sống. Do lượng nước từ trên các đỉnh núi tích tụ lại, ứ đọng nên nước ngọt rất dồi dào”. Ông Thái lý giải rằng, mạch nước ở vùng này rất mạnh, đó là do lượng nước từ vùng cao tụ lại gặp lượng nước biển tạo thành áp suất đẩy nước lên. Chính vì vậy, làng quê cạnh biển mà chẳng bao giờ thiếu nước ngọt. Hơn nữa, nguồn nước này rất mát về mùa hè và ấm về mùa đông. Nhiều người còn coi nguồn nước mạch này giống như một loại nước khoáng thiên nhiên.
Một hiện tượng khá lạ ở vùng biển này nữa là Trà Cổ thường rất ít chịu ảnh hưởng của thiên tai. Bởi, cả khu vực này được bao bọc bởi một hệ thống dãy núi trùng điệp. Người dân địa phương bảo rằng, có những năm mưa to gió lớn, nước biển dâng cao những chẳng vào đến nhà dân. Mưa bão cũng không gây ảnh hưởng đến những ngôi nhà nằm cạnh biển này.
Trước đây, người dân Trà Cổ chủ yếu hành nghề đi biển. Biển Trà Cổ rất giàu thủy sản. Họ đánh bắt cá, tôm, mực để bán buôn và bán lẻ tại các chợ vùng biên. Nguồn lợi biển cả đã giúp cho cuộc sống của người dân thêm sung túc, nhất là khi cửa khẩu Móng Cái được mở rộng. Dòng người từ khắp các vùng kéo đến đây để lập nghiệp. Bãi biển Trà Cổ cũng dần thu hút được khách du lịch đến tham quan nghỉ dưỡng. Cư dân ở Trà Cổ đã đứng lên làm du lịch.
“Những người ở lại đã rất sáng suốt. Họ nhìn thấy được những giá trị lớn lao mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này. Cuộc sống của người dân Trà Cổ đã thay da đổi thịt từng ngày”, ông Thái nói.
Chứng cứ về việc mở mang bờ cõi của tổ tiên
Theo nhà sử học Đỗ Văn Ninh, người có nhiều năm nghiên cứu về lịch sử Quảng Ninh thì: Ngôi đình Trà Cổ còn khá nguyên vẹn kiến trúc và điêu khắc từ thời nhà Lê. Đình Trà Cổ có giá trị ở chỗ là chứng cứ cho công lao mở mang bờ cõi của tổ tiên; là chứng cứ cho mối quan hệ máu thịt giữa miền biên với các miền khác trong cả nước. Trải qua thời gian, đình Trà Cổ vẫn đứng đó như biểu trưng cho sự trường tồn của văn hóa Việt. Ngôi đình đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều văn nghệ sỹ sáng tác. Trong đó, nổi bật nhất là ca khúc “Mái đình làng biển” của nhạc sỹ Nguyễn Cường.
Nguồn tin: www.doisongphapluat.com
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự