Gần hai mươi năm sau, các nhà nghiên cứu Nguyễn Đình
Chiến và Đỗ Đức Thọ đã tìm ra những chứng cứ thuyết phục để chứng minh chuông
Vân Bản không phải thời Lý, mà có niên đại thế kỷ XIII, thời Trần.
Chuông Vân Bản đã chiếm giữ "ngôi vị" quả
chuông cổ nhất Việt Nam suốt từ năm 1958 cho đến năm 1986 - khi chuông Thanh
Mai (niên đại 798) được phát hiện và "soán ngôi". Hiện nay, hồng
chung Vân Bản vẫn là quả chuông lâu đời thứ nhì ở nước ta, sau chuông Thanh
Mai.
Chuông Vân Bản có kích thước to lớn, cao 125cm, đường
kính miệng 80cm. Quai chuông trang trí hai con rồng đấu lưng vào nhau, nơi tiếp
giáp ở vị trí cao nhất trang trí hình búp sen vẩy cá chép bao phủ toàn bộ thân
rồng. Thân chuông có nhiều đường gân ngang dọc tạo thành 8 ô, 4 ô trên hình
thang đứng, 4 ô dưới hình chữ nhật.
Trong hai ô trên có hai bài minh văn khắc
chìm chữ Hán, 4 ô dưới để trơn. Chuông có 6 núm gõ, xung quanh mỗi núm có 16
núm tròn nhỏ tạo thành hình bông cúc. Phần vành miệng trang trí 52 cánh sen.
Bài minh văn trên chuông tuy bị mờ mòn nhiều, nhưng vẫn còn có thể đọc được phần
lớn số chữ. Theo ông Đỗ Đức Thọ (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), minh văn Vân Bản hồng
chung có đoạn: "…Khổ hạnh tăng Hướng Tâm, cư sĩ Đại Ác cộng khai sáng sơn
lâm hạ động, Đông chí hải biên vi giới, Tây chí biên hải thạch đầu vi giới,
bính chí Hoành Sơn vi giới, Bắc chí Sao Lương thạch vi giới…" (ô vuông là
những chữ mờ không đọc được).
Đoạn văn trên mô tả vị trí của cái động dưới chân
núi do nhà sư tu khổ hạnh hiệu Hướng Tâm và vị cư sĩ hiệu Đại Ác khai sơn. Vì
là động núi xa nơi thôn cư nên trong đoạn mô tả trên đây chúng ta không thấy những
địa danh làng xã hoặc một kiến trúc nào, chỉ biết động ấy: phía Đông ra đến bờ
biển; phía Tây đến hòn đá (hiểu đại khái là một hòn đá lớn hoặc khá lớn) bên bờ
biển; phía Bắc cũng đến một hòn đá gọi là hòn Sao Lương.
Như vậy, ba phía Đông,
Tây, Bắc đã được nói đến, nhưng còn một phía nữa là phía Nam chưa thấy nói đến.
Trong khi đó, văn chuông sau khi đề cập các phía Đông, Tây, thì có câu:
"Bính chí Hoành Sơn vi giới…". Điều này cho thấy người xưa đã kiêng
húy chữ Nam mà đổi chữ này sang chữ Bính, nên mới thành ra "Bính chí Hoàng
Sơn vi giới" có nghĩa là phía Nam giáp núi Hoành Sơn, và Hoành Sơn ở đây
nhiều khả năng chỉ là một quả núi nhỏ có đoạn nhô ngang ra biển ở Đồ Sơn.
Vậy triều đại nào có định lệ kỵ húy (đổi
Bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh dựng năm Hội
Tường Đại Khánh 9 (1118) có câu: "Bính Thân xuân nhị nguyệt, ngự giá
Trong khi đó, chỉ triều Trần mới quy định viết kiêng húy chữ
Qua mô tả nhiều thửa ruộng, thấy các từ Đông, Tây, Bắc đều
hiện diện, nhưng không có một chữ
Đồ Sơn không chỉ là địa danh du lịch nổi tiếng,
mà từ xa xưa nơi đây từng hiện hữu bảo tháp Tường Long, nằm cạnh tháp là chùa
Vân Bản đều là những thắng tích lừng danh trong lịch sử được vua Lý Thánh Tông
cho xây dựng. Tuy nhiên trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngày nay bảo tháp
và ngôi chùa xưa đã trở thành phế tích.
Dân gian Đồ Sơn từ bao đời nay còn truyền
tụng câu ca dao cổ hoài niệm về chùa Tháp Tường Long xưa: "Lý Gia truyền
được mấy đời/ Chùa tan, tháp đổ, chuông rơi Nò Hầu". Ông Tuệ Khương (Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam) cho biết, theo các cụ có tuổi "xưa nay hiếm"
ở Đồ Sơn, thì xưa kia phía Tây của núi Tháp (tức nơi có tháp Tường Long) có một
khe ăn sâu xuống biến.
Khe này gần bến đò Họng, tức Nò Hầu mà câu ca dao trên
nhắc tới. Tương truyền, khi chùa tháp bị đổ nát, chuông lăn xuống bến Nò Hầu.
Ít lâu sau, dân chúng hò nhau trục vớt được quả chuông ở bến đò Họng, rồi rước
về chùa Nam gần đó, sau này gọi là chùa Vân Bản. Trải qua vài trăm năm sau, do
một trận bão lớn, chùa Vân Bản bị đổ sập, quả chuông lại bị rơi lăn xuống biển ở
chân núi Tháp.
Đến thời Lê, chùa Vân Bản lại được dân chúng cung thỉnh
hạ sơn, làm chùa mới nhỏ hơn ở ven núi, gần khu vực bãi tắm một ngày nay. Sau
khi chùa mới dựng xong, người dân Đồ Sơn lại một lần nữa mò tìm, trục vớt quả
chuông cổ từ bến Đò Họng, đem về treo ở chùa cách đó không xa.
Biết bao đời đều
chung tâm nguyện quả chuông được yên vị, tồn tại cùng ngôi làng, sớm tối ngân
vang nơi góc bể chân trời, để bà con dân chài có nơi nương tựa tâm linh. Nhưng
không được bao lâu, chuông Vân Bản lại thêm một cuộc bể dâu chìm sâu trong lòng
biển Đồ Sơn.
Lý do cuộc lưu lạc lần này có nhiều suy đoán khác nhau. Có người cho
rằng, chuông Vân Bản bị thất lạc từ thế kỷ XV do dân làng cất giấu nơi lòng biển
cả để tránh cuộc tàn sát, vơ vét di sản văn hóa Đại Việt của giặc Minh. Và nhiều
thế kỷ sau đó, mặc dù đất nước trở lại yên bình nhưng dân làng vẫn chưa tìm được
chuông.
Cũng có ý kiến cho rằng, chuông bị mất từ đầu thế kỷ XIX, do người dân
giấu chuông xuống đáy biển để đối phó với việc phá chùa Tháp của Hoàng Cao Khải.
Việc này được ghi rõ trong sách Đại
Đến đây chuông Vân Bản tưởng như đã kết thúc số phận và
chìm sâu vào quên lãng của thời gian, thiên nhiên và đời người. Nhưng vào một
buổi sáng mùa hạ năm 1958, một vạt lưới của vạn chài Đồ Sơn bủa lưới đánh cá ở
vùng biển thuộc khu vực bãi tắm một ngày nay, bỗng vướng phải một vật cản lớn,
không thể kéo lưới lên được.
Những thợ lặn giỏi được phái xuống khảo sát, đã
phát hiện một quả chuông đồng khổng lồ bị mắc quấn trong lưới. Khi chuông vớt
lên, được sự nhận diện của các bô lão ở Đồ Sơn cùng với sự giám định của các
nhà khảo cổ học, thì đích thực đó là quả chuông chùa Vân Bản cổ xưa.
Từ khi ra đời đến nay, thời gian chuông Vân Bản
"ngụ cư" dưới nước nhiều hơn thời gian được treo tại chùa. Ít nhất 3
lần chuông phải vùi mình dưới đáy biển suốt thời gian dài, lần gần đây nhất bị
ngâm dưới nước biển mấy trăm năm, thế nhưng vẫn không bị nước mặn gây oxy hóa.
Người dân Đồ Sơn lý giải rằng, vì chuông được đúc với
một tỷ lệ vàng quá cao, nên dù bị sóng biển vùi dập mấy trăm năm mà vẫn còn
nguyên vẹn, tiếng chuông vẫn vang xa trăm dặm. Mỗi lần chuông mất tích thường trùng
với những lần người dân Đồ Sơn nói riêng, đất nước nói chung lâm vào cảnh suy
tàn hoặc ngoại xâm, và chuông thường xuất hiện trở lại vào đúng lúc đất nước phục
hưng, Phật giáo hưng thịnh.
Suốt thời gian đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, biết
bao đời người dân ở Đồ Sơn đã mò khắp đáy biển nơi này để tìm lại báu vật của tổ
tiên, và họ đã vô vọng tưởng như không bao giờ tìm lại được. Ấy vậy mà thật bất
ngờ, chỉ sau khi hòa bình lập lại vài năm, chuông đột ngột lăn vào lưới vạn
chài để tìm về với con người. Điều này chẳng kỳ lạ lắm sao?
Nguồn tin: Chu Minh Khôi
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự