Kim Chung Tự tức chùa Chuông vàng vốn nổi tiếng là “đệ nhất danh lam” Phố Hiến. Chùa Chuông nằm tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, TP Hưng Yên ẩn chứa bao huyền tích lạ lùng mà cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp.
Chuông vàng trôi sông
Theo Đại đức Thích Thanh Khuê - Trụ trì chùa Chuông, sở dĩ chùa có tên Kim Chung Tự là bởi liên quan đến huyền tích cổ xưa, khi một trận đại hồng thủy chưa từng có xảy ra tại địa phương. Trận đại hồng thủy hung dữ ấy đã cuốn theo một bè gỗ, và trên đó ngự một quả chuông vàng rất đẹp. Chiếc bè trôi qua nhiều nơi nhưng không dừng lại. Một ngày kia, bè gỗ đến địa phận thị xã Hưng Yên ngày nay thì dạt vào bãi sông thuộc thôn Nhân Dục. Các cụ già ở làng bên hô hào trai tráng trong vùng dốc hết sức lấy dây kéo chuông nhưng không được. Thấy thế, sư cụ một ngôi chùa nhỏ trong thôn vội mời 10 người nam trung, nữ trinh. Họ lấy tay nhấc chuông lên một cách nhẹ nhàng, thấy sự lạ, người trong vùng mới góp tiền của xây dựng lại chùa khang trang, rộng rãi hơn.
Sau đó, nhân dân trong vùng làm lễ rước chuông vào gác. Tất cả đều háo hức nghe sư cụ thỉnh hồi chuông đầu tiên. Hồi chuông ấy vang lên, âm thanh trong sáng, bay xa hàng ngàn dặm làm dân tình các nơi nghe thấy đều phấn chấn. Nhiều người còn kể, vì nghe thấy tiếng chuông mà báu vật của người Nam lưu lạc ở xứ Bắc liền trỗi dậy tìm về. Bọn vua quan phương Bắc lúc đó rất lo lắng vì ngày nào tiếng chuông còn được thỉnh thì các báu vật mà chúng cướp được của người Nam sẽ về hết với chủ.
Bọn chúng liền sang đất Việt đóng giả là những cao tăng tìm đến chùa hòng lấy cắp chuông vàng. Biết được dã tâm ấy, các tăng ni trong chùa đành mang chuông giấu xuống một giếng nhỏ. Dần dần, những người giấu chuông đều viên tịch hết, hậu thế muốn tìm lại chuông nhưng không biết ở đâu. Có người cho rằng, chuông vàng đã về với đất mẹ. Và để tưởng nhớ quả chuông thiêng ấy, các tăng ni và nhân dân trong vùng liền đổi tên chùa là Kim Chung Tự (tức chùa Chuông vàng).
Cầu đá và con đường nhất chính đạo
“Bói tượng” La Hán
Tại chùa Chuông hiện nay còn lại những pho tượng được đặt ở đỉnh tôn nghiêm, cao nhất thể hiện triết lý vô thường của nhà Phật. Riêng 18 vị La Hán được dựng khéo léo và đặt ở tư thế thoải mái, khuôn mặt biểu lộ cảm xúc. Theo Đại đức Thích Thanh Khuê, nét độc đáo của thập bát La Hán không phải chỉ ở nghệ thuật điêu khắc mà còn ở cảm xúc nội tâm được biểu hiện qua khuôn mặt. Cũng chính vì thế, đã tạo ra cách bói dân gian khá độc đáo tại chùa Chuông qua cách tính năm chọn tượng, cách tính tuổi để tìm tượng ứng với niên vận của mình trong một năm nhất định.
Lấy số tuổi đẻ (tuổi mụ) chia cho 9, số lẻ là bao nhiêu thì số tượng ứng với mình sẽ là số đó. Kết quả tìm tượng theo một nguyên tắc nhất định, nam bên trái, nữ bên phải. Ví dụ, một người sinh năm 1979, đến chùa Chuông tìm vận tượng của mình vào năm 2013, khi đó người sinh năm 1979 có số tuổi đẻ (tuổi mụ) là 35 thì có phương pháp tính như sau: Lấy 35 : 9 = 3 (dư 8). Như vậy, số tượng cần tìm là tượng số 8 phía bên tay trái theo hướng chùa nếu là nam, và bên tay phải hướng chùa nếu là nữ.
Tuy nhiên, nếu số tuổi chia hết cho 9 thì số tượng cần tìm sẽ là tượng số 9, tính bằng cách đếm tượng gần tòa Tam Bảo. Hoặc người đến chùa cũng có thể nhắm mắt tâm niệm rồi đi, sau đó dừng lại ở vị trí của một tượng bất kỳ, thì tượng ấy chính là niên vận của mình, cách này không phân biệt nam nữ, trái phải.
Không biết cách bói này chính xác đến đâu, nhưng đó là cách đoán vận mệnh của bản thân mà người địa phương thường có thói quen lên chùa hành lễ vào dịp lễ tết. Ngoài ra, chùa Chuông còn nổi tiếng với “Thập điện Diêm vương” nằm ở hai chái tiền đường, diễn tả những nhục hình mà con người phải trải qua nơi âm giới. Dù chỉ là mô phỏng nhưng khá rùng rợn.
Thập bát La Hán - nơi để bói tượng
Chưa rõ niên đại
Chùa Chuông không chỉ chứa đựng nhiều huyền tích bí ẩn, ly kỳ mà còn ẩn chứa những bí ẩn lịch sử mà cho đến nay, sau rất nhiều nghiên cứu của các nhà sử học, qua một số cuộc hội thảo về phố Hiến… vẫn không tìm ra chính xác sự ra đời của ngôi thiền tự này.
Trong công trình nghiên cứu “chùa Chuông - đệ nhất danh lam” của tác giả Nguyễn Thuấn và Nguyễn Văn Chiến cũng nêu ra ước đoán chùa có niên đại cách ngày nay khoảng 1.700 năm (tức vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên). Tuy nhiên, theo cuốn “Đồng Khánh địa dư chí” thì chùa Chuông được xây dựng thời Hậu Lê (thế kỷ VX) và trải qua một cuộc trùng tu lớn vào năm 1707. Một số nhà nghiên cứu như GS Phan Huy Lê, Trương Hữu Quýnh, Trần Lâm Biền… cho rằng, chùa và văn bia có quan hệ cứ liệu lịch sử nên chùa phát tích từ triều Lê.
Không đồng ý với quan điểm ấy, nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng, văn bia trong chùa không thể chứng minh sự ra đời chính xác của thiền tự, mà chỉ là giả thuyết mà thôi. Vì thực tế, cứ liệu trên bia ghi chép về việc trùng tu chùa Chuông chứ không phải nói về công cuộc xây dựng chùa Chuông thời ban đầu. Mặt khác, một số di vật trong chùa hiện tại không thống nhất với nhận định về phát tích của chùa từ thời Lê. Điển hình là một vài viên ngói trên mái chùa là ngói mũi hài có nét hoa văn thời Trần.
“Di tích chùa Chuông được nhà nước xếp hạng trong quần thể di tích lịch sử phố Hiến năm 1992, chúng ta đã thấy được giá trị to lớn của ngôi thiền tự này không chỉ bởi ý nghĩa tâm linh, mà còn có ý nghĩa lớn về lịch sử, niềm tự hào của Phố Hiến xưa”, ông Nguyễn Thuấn - Trưởng ban Quản lý di tích & danh thắng tỉnh Hưng Yên.
Bà Bùi Thị Phấn - Trưởng phòng Nghiệp vụ văn hóa - Sở VH-TT&DL Hưng Yên: Nằm trong quần thể di tích phố Hiến, chùa Chuông là di tích có kiến trúc thời Hậu Lê. Tại đây còn lưu giữ nhiều di vật quý như cây hương đá, cầu đá xây dựng năm 1702, cùng hệ thống tượng Phật phong phú đặc sắc. Tôi đã mời khá nhiều kiến trúc sư đến chùa Chuông, tất cả đều có nhận xét chùa Chuông có phần cổng được xây mẫu mực nhất về kiến trúc”.