Trang 143 cuốn Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước của
tác giả Hoàng Thanh Đạm, Nhà xuất bản Lý luận chính trị năm 2005, nêu với đại
ý: Đầu tháng 6.1928, ông Nguyễn đáp tàu thủy của Nhật Bản qua Sri Lanka tới
Bangkok, thủ đô của nước Xiêm (Thái Lan). Tháng 7.1928, các đồng chí Thanh niên
Cách mạng đồng chí hội ở Phichit, miền bắc nước Xiêm, đã được gặp lại Nguyễn Ái
Quốc, người thầy, người lãnh tụ của mình.
Liên quan tới nội dung trên, trang 55 cuốn Hồ Chí
Minh, vị thánh sống của tác giả Sukprida Banomyong, xuất bản lần thứ nhất tại
Thái Lan tháng 7.2009, nêu: khi tàu thủy cập bến Bangkok, ông Nguyễn Ái Quốc đến
thẳng chùa Từ Tế nằm trên phố Rachavong. Ông Nguyễn chọn nơi đây làm địa chỉ đầu
tiên ở Thái Lan vì đã có liên hệ với vị sư người Việt
Vậy thực hư về chùa Từ Tế ở
Diện mạo ngôi chùa ngày nay rất khó nhận ra dấu tích Việt bởi kết quả của đợt
trùng tu hồi cuối năm 2000. Chứng tích hùng hồn lưu giữ trong chùa lưu lại trên
một bia đá kích thước khoảng 1m x 1,5m. Tấm bia được khắc bằng ba ngôn ngữ,
theo thứ tự từ trái sang phải: Việt - Thái - Trung Quốc.
Đại ý phần tiếng Việt
cho biết: Ngày 28.4.1952, khởi công dỡ bỏ chùa cũ đã hơn 100 năm để xây dựng
chùa mới. Người chủ trì công việc là sư cả pháp danh Bình Lương, tên thật là Phạm
Ngọc Đạt. Ông rời Việt
Trụ trì
chùa là hòa thượng Hạnh Nhơn đã cho ông Đạt pháp danh Thượng Trương Thiệt Hạ
Bình, tên chữ là Bình Lương. Năm 1937, sư Bình Lương được cử trông nom chùa Phổ
Phúc Phong. Ông được các vị vua thứ 7 và thứ 9 của Thái Lan phong sắc vào các
năm 1937, 1948. Nhờ vậy, sư Bình Lương đã đứng ra xin phép xây dựng lại chùa Từ
Tế và cho khắc tấm bia này để đời sau biết.
Bác sĩ Bệnh viện Việt – Xô sang đón nhà
sư Bình Lương về nước - Ảnh: tư liệu
Lai lịch của
vị sư trụ trì mang tục danh Phạm Ngọc Đạt như thế nào?
Nép mình khiêm tốn bên Hồ Tây thơ mộng ở thủ đô Hà Nội
có chùa Hoằng Ân, thôn Quảng Bá, xã Quảng An, quận Tây Hồ. Ngôi chùa được gắn
biển “Di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng”. Vị trí trang trọng trong khuôn viên
tĩnh lặng của chùa đang treo tấm khung khổ A0, giấy trắng khiêm tốn, chứa đựng
nét chữ rất điêu luyện với nội dung sau:
Hòa thượng Bình Lương tên thật là Phạm Ngọc Đạt (tức cụ
Sư Ba) sinh năm 1882 tại xã Sơn Bằng, Hương Sơn, Hà Tĩnh, trụ trì tại chùa Từ Tế,
thành phố Bangkok, Thái Lan. Hòa thượng Bình Lương tham gia phong trào cách mạng
từ thời kỳ Phan Đình Phùng khởi nghĩa và sang Thái Lan sau thời gian đó cùng cụ
Hồ Thiện. Hòa thượng Bình Lương trụ trì chùa Từ Tế với lòng nhiệt tình yêu nước
thiết tha, mong muốn nước nhà tự do, độc lập. Hòa thượng hết lòng ủng hộ cách mạng.
Chùa Từ Tế là nơi nuôi dưỡng và che giấu cán bộ cách mạng hoạt động bí mật.
Ngay từ năm 1930-1935, ngôi chùa hòa thượng Bình Lương
trụ trì đã là nơi tiếp đón, nuôi giấu nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đặc
biệt từ năm 1940 trở đi, chùa Từ Tế là nơi các cán bộ đi lại hội họp, đi về hoạt
động trong nước và sang Lào giúp đỡ phong trào cách mạng Lào.
Từ năm 1945, giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta, cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch được toàn thể
nhân dân đoàn kết chiến đấu. Nhiều Việt kiều ta ở Lào, Campuchia phải tạm lánh
sang Thái Lan để tiếp tục chống Pháp.
Chùa Từ Tế lại là nơi không chỉ có cán bộ đi lại hội họp
mà còn là nơi cán bộ chiến sĩ qua lại, đi từ trong nước hoặc qua Miên, qua Lào cùng
tạm trú nơi này. Từ năm 1950, khi chính phủ phản động Thái Lan dồn ép Việt kiều,
hòa thượng vẫn kiên quyết giữ cho ngôi chùa là nơi đi lại hợp pháp của cán bộ
ta để hoạt động.
Hòa thượng Bình Lương thấm nhuần sâu sắc đức tính từ
bi của đạo Phật. Khi Việt kiều tản cư sang Thái Lan đã được giúp đỡ ở chùa, có nhiều
người được nuôi nấng ăn học chu đáo.
Ngày 9.3.1963, do sức khỏe giảm sút và thể theo nguyện
vọng thiết tha, hòa thượng Bình Lương đã được về nước sống những năm tháng cuối
đời trên quê hương thân yêu và được gặp lại Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến.
Do sự thỏa thuận của ta và Hội Hồng thập tự Thái Lan,
ta đã tổ chức một chuyến bay đặc biệt đưa cụ từ Bangkok qua Vientiane đón cụ về
và cũng từ ngày 9.3.1964 nhiều lần Bác Hồ vào thăm hòa thượng tại Bệnh viện Việt-Xô.
Hòa thượng Bình Lương viên tịch ngày 20.4.1966, thọ 84
tuổi. Tang lễ được cử hành tại chùa Quán Sứ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ
Chủ tịch đến đặt vòng hoa kính viếng.
Từ các tình tiết mà một số tư liệu lịch sử đã nêu,
chúng tôi mạo muội suy luận: Hòa thượng Bình Lương chắc chắn có đóng góp vô
cùng quan trọng cho công cuộc kháng chiến, đấu tranh giành thống nhất đất nước của
nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình của Bác.
Hơn thế nữa, nhân cách, đạo
đức vĩ đại của Bác Hồ đã khiến vị chân tu đắc đạo, được hai lần phong sắc bởi
các vị vua nắm ngai vàng của đất nước Thái Lan tôn sùng Phật giáo như Quốc đạo,
nhất quyết rũ bỏ tất cả, trở về Hà Nội đang mịt mù khói lửa bởi niềm thôi thúc
ước nguyện được gặp Bác.
Nguồn tin: Thanh Niên
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự