Xuân Dục là quê hương của nhà yêu nước Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy vào cuối thế kỷ XIX. Trên mảnh đất này, cây cổ thụ, giếng nước, ngôi chùa nào cũng chứa đựng những truyền thuyết nửa hư nửa thực. Vì vậy người dân địa phương cho rằng những ai đến Xuân Dục mà không khám phá bao câu chuyện huyền diệu ẩn trong những trầm tích rêu phong coi như chưa đặt chân đến bao giờ.
Tượng đất hóa vàng ở chùa cổ
Ngày xưa, các mục đồng đi chăn trâu ở Xuân Dục thường dùng đất ở bãi chăn thả trâu để nhào nặn thành các pho tượng. Mục đồng còn dùng lá chuối khô hoặc rơm rạ dựng thành những túp lều nhỏ để chơi đồ hàng.
Vào một đêm mưa gió bất chợt, sấm sét vang rền trời, cả một vùng đất rộng lớn đều kinh hãi. Hôm sau, khi trời quang đãng, người dân lại dắt trâu bò ra bãi thì bất ngờ phát hiện những pho tượng nặn bằng đất của các mục đồng đã hóa thành tượng vàng ròng.
Thấy sự lạ, người dân đã thỉnh mời các cao tăng thời đó đặt tên cho bức tượng là Đức Phật Bà Đồng Quân và mang vào chùa Sùng Bảo thờ cúng, lễ lạt. Từ đó đến nay, những câu chuyện nửa hư nửa thực liên quan đến bức tượng này cứ thế lan xa. Trong đó có chuyện kể về việc vua Đinh Tiên Hoàng đánh giặc ngang qua chùa mới vào thắp hương cầu khấn.
Phật Bà Đồng Quân đã phù hộ cho vua đại thắng dù lúc đó, lực lượng của vua Đinh Tiên Hoàng so với giặc chỉ như trứng chọi đá. Người dân địa phương lại có tục thờ Phật Bà Đồng Quân để phù trợ mùa màng tốt tươi. Thầy Thích Tuệ Hạnh cho hay, ngày xưa hạn hán liên miên, người dân đã lập đàn cầu mưa và rước tượng Phật Bà Đồng Quân từ chùa Sùng Bảo.
Các cao niên xác nhận, bao giờ cũng thế khi rước tượng xong là trời đổ mưa cho ruộng đồng ngập nước. Thế nhưng, số phận tượng vàng Phật Bà Đồng Quân cũng lắm gian truân.
Dù không còn tượng vàng nhưng trong lòng dân làng vẫn tin vào Phật Bà Đồng Quân nhiệm màu giúp mọi người tu nhân tích đức, làm nhiều việc thiện. Hiện nay, ở Xuân Dục vẫn lưu giữ hơn 250 câu kệ về sự tích “tượng đất hóa vàng”, được chép thành sách giữ gìn cho thế hệ sau.
Giếng cổ khiến tướng Cao Biền bất lực
Cách chùa Sùng Bảo không xa là giếng cổ trước cửa đình làng Xuân Bản. Người dân xã Xuân Dục đặt tên là giếng Sủi bởi nước giếng luôn sủi bọt quanh năm. Theo cụ Tiễu, nước giếng luôn trong xanh, không bao giờ cạn, người dân địa phương không ai dám xả rác thải, chất bẩn xuống.
Qua tìm hiểu, người dân Xuân Dục lưu truyền chuyện giếng làng Xuân Bản là đầu con rồng luôn phun châu nhả ngọc, còn bụng rồng ở làng Xuân Nhân và đuôi rồng là làng Xuân Đào. Giếng nước hàng nghìn năm tuổi này từng khiến tướng giặc phương Bắc là Cao Biền thất kinh, bất lực khi đến đây làm bùa chú trấn yểm. “Chuyện kể rằng trong lần đi xem long mạch các vùng giáp thành Đại La, ông ta phát hiện một mạch phát vương có tia năng lượng rất mạnh từ giếng Sủi. Sau rất nhiều ngày tính toán để triệt hạ long mạch của giếng nhưng đều bị thất bại, cứ mỗi lần Cao Biền vứt bùa xuống giếng thì đều bị nguồn nước sủi tăm cuốn trôi bùa chú, đành bất lực bỏ về”, ông Tiễu kể lại.
Giếng Sủi trước đình làng Xuân Bản
Do giếng sủi bọt tăm nhiều như nồi nước sôi nên người dân trong làng đã từng úp cối đá xuống để bớt sủi nhưng vẫn không ăn thua. Trong lần nạo vét giếng, mọi người đưa bùn đất lên bờ thấy khói bốc nghi ngút, đặt lá cây tươi vào liền bốc cháy. Khi chuyên gia về khảo sát thì phát hiện khí metan dưới giếng đã tạo ra hiện tượng sủi bọt.
Ông Vũ Văn Yên – Chủ tịch UBND xã Xuân Dục cho hay: “Nước trong giếng không bao giờ cạn là sự thật. Còn việc nước sủi bọt khi chưa giải thích được, người ta thường hay thần thánh hóa thành truyền thuyết. Sau này, chúng tôi mời chuyên gia về khảo sát thì phát hiện khí metan dưới đó mới tạo ra hiện tượng sủi bọt”.