TẶNG MỘT VẦNG TRĂNG

Thứ năm - 22/01/2009 22:42
Một vị thiền sư ẩn tu trong am tranh trên núi, một hôm nhân buổi tối đi dạo trong rừng, dưới ánh trăng vằng vặc, đột nhiên ngài ngộ ra trí tuệ của mình.

Ngài vui mừng trở về nơi ở, nhìn thấy am tranh của mình bị kẻ cắp lục lọi, kẻ cắp tìm không ra của cải gì, lúc sắp sửa bỏ đi, thì gặp thiền sư ở cổng. Thì ra, sợ kẻ trộm giật mình, thiền sư từ nãy đến giờ cứ đứng đợi ở cổng. Ngài chắc chắn kẻ trộm không tìm được bất cứ đồ đạc gì đáng giá, liền cởi chiếc áo ngoài của mình cầm sẵn trong tay.

Dường như đối với ông, nói như nhà Phật, nợ trần chưa hết. Một ngày nọ, ông gặp cô nữ sinh Hoàng Thị Bích Vân rồi đem lòng yêu mến. Sư trụ trì biết chuyện, đồng ý cho ông hoàn tục. Lấy nhau, hai vợ chồng ông Thiền dắt nhau vào Vũng Tàu sinh sống, 5 đứa con trai lần lượt ra đời.

Ân sinh ra, ông bà Thiền đầu tắt mặt tối cũng không đủ cho 7 miệng ăn. Ân thường xuyên đau ốm. Một ngày nọ, trụ trì của một ngôi chùa thuộc huyện Đơn Dương, Lâm Đồng, người đã từng học với ông Thiền ở Huế ghé nhà chơi.

Thấy cậu bé Ân với khuôn mặt nhân hậu thì thích lắm. Nghe chuyện về Ân, trụ trì bảo gia đình hãy giao Ân cho ông nuôi. Ân học xong lớp 6 đã phải khăn gói lên chùa để ở, vừa để làm công quả vừa tiếp tục học hành. Trụ trì đặt cho Ân pháp danh là Nguyên Viên...

Sau 6 năm cố gắng làm việc ở chùa, vừa chuyên tâm học hành, Ân được thầy trụ trì khuyên về dự thi đại học. Khi Ân có ý nguyện xuất gia, thầy trụ trì đã nói với Ân rằng: “Con hãy cứ về với cha mẹ, tiếp tục học hành để trả cái ơn sinh dưỡng, rồi con phải ra đời để nếm trải cuộc sống, khi nào con thực sự muốn thì về với thầy. Cửa chùa lúc nào cũng rộng mở đón con”.

Nghe lời thầy trụ trì, Ân lại khăn gói về quê làm hồ sơ thi đại học, nhưng đó cũng là thời điểm mà mẹ Ân, bà Hoàng Thị Bích Vân bị ung thư giai đoạn cuối. Bà Vân là một phụ nữ phúc hậu, cả đời bà chỉ quanh quẩn chuyện lo lắng cho chồng con và giúp người, giúp được gì là bà dốc sức ra mà giúp.

Mẹ Ân chuyên làm bánh bột lọc, đạp xe đi bán bánh, nuôi anh em Ân ăn học, có ngày bà phải đạp đi xa gần 100km. Khi bà bị bệnh, chồng bà, cùng 5 người con đôn đáo đi vay mượn khắp nơi, bán đi tất cả những gì có thể để có tiền đưa bà đến Trung tâm Ung bướu chữa bệnh.

Không biết định mệnh sắp đặt thế nào mà bà Vân lại nằm ngay trên chiếc giường mà bà Phẳng nằm ở dưới. Những ngày cuối đời, bà Vân bị liệt nửa người, không thể tự lo sinh hoạt, mấy cậu con trai thì bỡ ngỡ, mọi chuyện sinh hoạt của bà Vân đều do bà Phẳng giúp. Hai người đàn bà coi nhau như chị em ruột thịt, hợp tính nhau, tâm sự quấn quýt bên nhau cả ngày không chán.

Cùng là phụ nữ, bà Vân hiểu được nỗi khao khát thầm kín của bà Phẳng, đó là một gia đình hoặc một đứa con hiếu thảo chăm sóc. Có lần bà nói với Ân: “Mẹ không sống được mấy nỗi, má Phẳng tội nghiệp lắm, không người thân thích, khi ốm đau không biết trông cậy vào ai. Khi má chết, con hãy lo cho má Phẳng như con đã lo cho mẹ”.

Rồi bà cũng bảo với bà Phẳng rằng: “Tôi coi chị như chị em, tôi có 5 đứa con, đứa nào cũng hiếu thảo. Chị hãy nhận thằng Ân làm con nuôi, coi nó như con của chị, nó sẽ đỡ đần cho chị lúc tuổi già, ốm đau bệnh tật...”. Bà Vân mất, bà Phẳng đau đớn đến tột cùng.

Bà Vân qua đời, anh em Ân đưa mẹ về làm tang lễ. Khi ấy bà Phẳng cũng đột nhiên trở bệnh nặng, không thể về quê bà Vân để đưa tiễn người chị em về nơi yên nghỉ. Bà chỉ biết nằm dưới gầm giường phòng 204 mà khóc. Năm ấy, Ân thi rớt đại học.

Trong suy nghĩ của mình, bà Phẳng nào dám nghĩ tới sự trở lại của Ân trong bệnh viện này. Nào ngờ, lo tang cho mẹ xong, Ân trở lại bệnh viện, thấy bà Phẳng nằm liệt, người xanh xao, chân không còn cử động được. Không đắn đo, Ân đã ở lại bệnh viện để chăm sóc mẹ nuôi.

Ân kể, lần đầu tiên chăm sóc cho mẹ nuôi, Ân cũng ngại, nhưng biết mẹ nuôi không thể tự làm, Ân thấy đấy là bổn phận, và Ân đã giúp bà mọi việc. Giờ thì Ân đã quá quen rồi, Ân coi đó là một việc bình thường, từ khi bà Phẳng bị liệt phải nằm một chỗ, mọi chuyện sinh hoạt, ăn uống của bà Phẳng đều do một tay Ân chăm sóc, kể cả chuyện vệ sinh, tắm rửa... Ân đều tự tay mình làm.

Bà Phẳng nghèo, gia đình Ân cũng nghèo, không có tiền hóa trị cho mẹ nuôi, Ân phải xin bác sĩ thuốc thừa của những bệnh nhân khác. Những lúc mẹ không có thuốc, Ân chạy đôn, chạy đáo xin tiền ở hội từ thiện để mua thuốc cho mẹ. Mỗi khi bà Phẳng trở mình, đau nhức, suốt đêm Ân xoa bóp chân tay, quạt cho bà yên giấc.

Năm 2003, Ân vừa chăm sóc mẹ nuôi vừa ôn thi đại học ngay cái phòng 204 ấy, bà Phẳng cũng khuyên Ân cố thi vào đại học để có tương lai. Hằng ngày, ngoài việc chăm sóc mẹ, ôn bài, lúc rảnh, Ân lại đi phụ phát cơm cháo từ thiện của chùa Bảo Vân.

Có khi, trong phòng có một bệnh nhân lớn tuổi, bệnh nặng phải thở bằng oxy, nằm một chỗ cả tuần không người tới chăm lo. Ân, má Phẳng và các hộ lý thay nhau chăm sóc, làm vệ sinh cho người bệnh tội nghiệp đó.

Cảm động vì lối sống nặng nghĩa tình của Ân, một kiến trúc sư trẻ biết chuyện về Ân sau những ngày vào chăm sóc mẹ mình trong bệnh viện, anh thường hay vào bệnh viện giúp Ân ôn thi. Người ta kể rằng, những tháng ngày ôn thi đại học, Ân hay ngồi dưới chân mẹ nuôi, không bật điện tránh làm phiền người khác, Ân chong đèn dầu leo lét dưới chân mẹ.

Năm ấy, bà Phẳng cũng thường xuyên bị cơn đau đến thấu xương tủy do căn bệnh quái ác hành hạ, nhưng thấy Ân chăm  chú học, bà cố cắn răng chịu đựng, bà đau đến nước mắt giàn giụa Ân mới phát hiện.

Năm 2003, Ân thi đậu vào khoa Đông Nam Á học của Đại học Mở Bán công TP HCM. Không kịp gọi điện báo cho cha ruột, Ân chạy ào vào bệnh viện, ôm mẹ nuôi mà mừng. Khỏi phải nói bà Phẳng vui đến mức nào. Bà khóc, và đó có lẽ là những giọt nước mắt hạnh phúc nhất trong suốt cuộc đời đầy trầm luân của bà. Như một phép lạ, những cơn đau của bà bớt dần, bà dần đi lại được.

Thời gian ấy, bệnh viện cũng quá tải, nhường lại cái góc hẹp cho người bệnh khác, mẹ con Ân ra thuê nhà trọ gần bệnh viện. Ân tính toán thu xếp chuyện học hành và công việc sao cho không ảnh hưởng đến chuyện chăm sóc mẹ nuôi.

Năm 2005, khi phải phân chuyên ngành, Ân tính chọn ngành văn hóa, nhưng ngành này phải học buổi sáng mà khi đó mỗi sáng Ân phải thường xuyên đưa mẹ nuôi vào bệnh viện nên không thể theo học, Ân chọn ngành du lịch, học buổi chiều để tiện chăm sóc mẹ.

Mơ ước lớn nhất của bà Phẳng là xây được ngôi mộ kiên cố cho mẹ. Ở cái phòng 204 ấy, mỗi khi trời mưa, bà lại nhớ đến mẹ, lo sợ không biết ngôi mộ của mẹ xây tạm bợ trên ngọn đồi bằng cát ấy có bị trôi đi không, có bị trâu bò phá hỏng không? Lo nghĩ ấy khiến bệnh tình của bà ngày thêm nặng. Bà không có tiền, không có sức, đi làm sao nổi, nhiều lúc bà muốn nói với Ân về nỗi lo ấy, nhưng thấy con vất vả quá, bà lại thôi... Bà cứ giấu nỗi lo ấy trong lòng, thi thoảng dấm dứt khóc một mình.

May mắn thay, khi bà có thể tạm đi lại được, nhiều nhà hảo tâm nghe chuyện về bà và đứa con nuôi đã giúp bà ít tiền để hóa trị. Bà chỉ dùng một nửa số tiền của ân nhân để hóa trị, một ít còn lại bà cùng Ân về quê xây mộ cho mẹ. Khi bà trở về quê, người trong làng đã hết sức bất ngờ.

Ngần ấy năm bà đi biền biệt, người ta cứ ngỡ với bệnh tình như vậy bà đã chết, bấy nhiêu năm nay, người làng vẫn thay nhau hương khói, chăm sóc mộ cho mẹ bà. Khi nghe bà có ý định xây mộ cho mẹ, hàng xóm người góp công, người góp sức chung tay vào giúp bà. Vậy là, mẹ bà đã có được một ngôi mộ kiên cố đẹp đẽ, thỏa ước nguyện cuối cùng của đời bà.

Nhưng căn bệnh quái ác khiến bà cũng không thể ở lâu bên mộ mẹ, bà lại phải trở về bệnh viện. Lúc ra đi, bà đã khóc ròng, bà sợ rằng, mình sẽ không thể trở lại thăm mộ mẹ lần nữa. Bà sợ mình vĩnh viễn không thể trở lại nơi này.

Thời gian sau đó là thời gian hạnh phúc, Ân có lúc đi học, lúc đi làm thêm. Còn bà ở nhà lo chuyện ăn uống trong căn nhà thuê gần bệnh viện. Trước đây, bà Phẳng có nằm mơ cũng không nghĩ đến bà sẽ có những ngày như thế.

Hạnh phúc viên mãn ấy không kéo dài được bao lâu, đến đầu năm 2005, những cơn đau lại tái phát, bà không thể đi lại, rồi liệt dần. Rồi từ đó, hằng ngày, Ân thức dậy từ 5 giờ sáng làm vệ sinh cho mẹ. Sau đó, bế mẹ lên xe rồi đẩy đến bệnh viện cho các bác sĩ khám, điều trị. Thế nhưng, sợ để mẹ ở nhà trọ thiếu thốn đủ thứ, lúc nguy biến không biết xoay sở thế nào, hai mẹ con lại dọn vào trong bệnh viện.

Phòng 204 hết chỗ, bệnh viện bố trí cho mẹ con Ân sang bên phòng 206, hiểu hoàn cảnh của hai mẹ con, bà Phẳng được bệnh viện bố trí nằm ngay lối đi căn phòng, rộng rãi hơn một chút và tiện cho việc sinh họat.

Trưa, Ân đạp xe đến giảng đường, giờ ra chơi 15 phút, Ân lại chạy về bệnh viện ngó qua mẹ nuôi, khi thì dặn dò, khi thì lo chuyện vệ sinh, cho bà uống chút nước, ăn chút cháo rồi lại tức tốc chạy vào giảng đường.

Giờ Ân đã là sinh viên năm cuối, để có tiền đóng học phí và chữa bệnh cho mẹ, Ân xin đi phục vụ các tiệc cưới ở nhà hàng Hoa Hồng, khách sạn Kỳ Hòa. Mỗi đám cưới, Ân được trả công 30 nghìn đồng. Trung bình mỗi tháng Ân kiếm được khoảng 300 nghìn, tháng nào nhiều việc, Ân thu nhập đến 500 nghìn. Nhưng số tiền nhỏ nhoi đó chẳng thấm vào đâu so với tiền thuốc điều trị của mẹ nuôi.

Những lúc không có thuốc, biết mẹ cắn răng chịu đau, Ân cứ ngồi hàng giờ bóp tay, bóp chân cho bà. Khi bà ngủ ngon Ân mới học bài, nhiều khi Ân ngủ gật gù dưới chân mẹ, bà Phẳng tỉnh dậy, cũng không dám trở mình, sợ con thức giấc.

Kể cho tôi nghe, bà Phẳng rơm rớm nước mắt. Ân lấy khăn lau mắt cho mẹ, rồi nhắc khéo bà: “Mẹ đừng khóc, có con rồi mà”. Tôi cảm thấy nghèn nghẹn trong cổ họng mình. Lúc Ân đi ra ngoài, bà ghé tai tôi nói nhỏ, cả cuộc đời bà cơ khổ, trầm luân, chịu nhiều bi kịch, bà có ngờ đâu cuối đời ông trời lại bù đắp cho bà đứa con hiếu thảo - đứa  con mà bà không có công sinh, cũng chẳng một ngày nuôi dưỡng.

Được nếm trải hạnh phúc làm mẹ, ngay ngày mai, bà có nhắm mắt ra đi, bà cũng mãn nguyện lắm! Tôi hỏi bà có ước nguyện gì không, trầm tư một lúc rồi bà bảo, bà chỉ mong làm sao được khỏe lại, để lo chuyện cơm nước cho thằng Ân, để bù đắp những ngày nó cơ khổ vì bà, nhưng bà biết, ngày ấy có lẽ sẽ không bao giờ trở lại...

Tôi chia tay mẹ con bà Phẳng mà trong đầu quẩn quanh nhiều suy nghĩ. Ở bệnh viện, nơi biết bao con người đang phải hàng ngày hàng giờ vật lộn, chống chọi với bệnh tật, cuộc đời bà Phẳng là hiện thân của niềm tin, niềm khao khát sống kỳ lạ. Còn Ân, em chính là người đã viết nên câu chuyện cổ tích thuyết phục nhất về hai chữ hiếu - sinh.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây