The Peguin Dictionary of Psychology (Từ điển Penguin về Tâm lý học) của tác giả Arthur S. Reber và Emily S. Reber đã định nghĩa tuổi thiếu niên như sau: Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển được đánh dấu bằng sự khởi đầu của quá trình dậy thì và kết thúc bằng sự đạt được mức độ trưởng thành về tâm lý cũng như sinh lý(1). Còn The Gale Encyclopedia of Psychology (Bách khoa Từ điển về Tâm lý học của NXB. Gale) do Bonnie R. Strickland chủ biên thì định nghĩa: Tuổi thiếu niên là nói đến thập niên thứ hai trong vòng đời của con người, tức là từ 10 đến 20 tuổi. Tuổi thiếu niên còn được gọi là tuổi dậy thì(2).
Thường thì tuổi dậy thì tương ứng với độ tuổi từ 12 hoặc 13 tuổi cho đến 17 hoặc 18 tuổi. Tuy nhiên, sự phân định về tuổi thiếu niên chỉ có tính chất tương đối, vì thời điểm bắt đầu của sự dậy thì và thời điểm đạt được sự trưởng thành về tâm sinh lý khó xác định chính xác, tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, ở nữ khác so với nam, ở phương Tây khác với phương Đông, ở các nước phát triển khác so với ở các nước nghèo,… Và hiện nay thì thời điểm bắt đầu sự dậy thì đang có xu hướng diễn ra sớm hơn, có nghĩa là tuổi thiếu niên đến sớm hơn. Đây là giai đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của sự dậy thì ở nam lẫn nữ.
Lứa tuổi thiếu niên là lứa tuổi có nhiều biến động trong đời sống con người, lứa tuổi mà tính tình, nhân cách của con người bắt đầu quy tụ và nảy nở. Ở lứa tuổi này, trong các em có một sức sống mạnh mẽ và đồng thời sự cân bằng cũng bị phá vỡ. Các em thiếu niên không còn là trẻ con, nhưng cũng chưa hẳn là người lớn. Các em còn thiếu kinh nghiệm, kiến thức còn non kém. Nếu như thiếu sự giúp đỡ, giáo dục đúng đắn, kịp thời của người lớn thì các em rất dễ bị sa vào những cạm bẫy, những tệ nạn xã hội.
Ở
lứa tuổi thiếu niên, do sự biến đổi lớn về mặt sinh học, sự phát triển không
đồng đều về các bộ phận của cơ thể, nhất là ở các chi, làm cho các em thiếu
niên có vẻ lóng ngóng, vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận trọng,
hay làm đổ vỡ… Điều này gây cho các em cảm giác khó chịu. Hơn nữa, hệ thần kinh
của thiếu niên chưa được ổn định, chưa có khả năng chịu đựng những kích thích
mạnh, có tính đơn điệu, kéo dài.
Điều này thường gây cho các em tình trạng bị ức chế hay ngược lại là bị kích động mạnh, dẫn đến những phản ứng tiêu cực, không đúng với bản chất của các em. Vì thế, những người làm công tác giáo dục cần phải nhận thấy được vấn đề này để có sự hướng dẫn và tác động phù hợp. Không nên nói nặng lời với các em, biết thông cảm và ân cần khuyên nhủ các em, phải hết sức thận trọng khi nhận xét các em. Không nên chế giễu về sự vụng về, lóng ngóng của các em.
Vấn
đề tiếp theo là đặc điểm phát triển trí tuệ của lứa tuổi thiếu niên. Hoạt động
trí tuệ của các em thiếu niên phát triển hơn so với lứa tuổi trước. Các em có
khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp hơn khi nhận thức về các sự vật, hiện
tượng. Trí nhớ cũng được nâng lên một trình độ cao hơn, ghi nhớ máy móc dần dần
nhường chỗ cho sự ghi nhớ lô gíc và ghi nhớ ý nghĩa. Vì thế, hiệu quả của việc
ghi nhớ trở nên tốt hơn.
Khả năng tập trung sức chú ý của các em cũng mạnh hơn, bền vững hơn. Tuy nhiên, tính lựa chọn sự chú ý phụ thuộc rất nhiều vào tính chất của đối tượng tri giác và mức độ hứng thú của các em với đối tượng đó. Khả năng tư duy cũng cao hơn rất nhiều, tư duy trừu tượng, khái quát phát triển mạnh. Chính những đặc điểm này đã nâng hoạt động học tập của các em thiếu niên lên một tầm cao mới, trở thành hoạt động chủ đạo. Hoạt động học tập ở các em đã tạo ra những biến đổi quan trọng trong tâm lý của các em, trong đó có những biến đổi giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các chức năng tâm lý và có sự chi phối đến các biến đổi khác.
Các
em thiếu niên không còn là trẻ con nữa. Chính các em cũng ý thức được vấn đề
này. Cho nên các em có nhu cầu muốn trở thành người lớn, muốn tự khẳng định
mình và muốn được xem là người lớn. Điều này đã đưa đến sự hình thành tính tích
cực hoạt động xã hội trong các em. Các em thích được tham gia vào các hoạt động
tập thể, các hoạt động mang tính xã hội.
Các em có nguyện vọng muốn đem lại
điều tốt lành cho mọi người - giúp mọi người trong cơn hoan nạn, ốm đau, cảm
thông sâu sắc với những nỗi khổ cực, bất hạnh của người khác. Những mong muốn
này thường được các em ý thức rõ ràng. Song, đôi khi cũng chưa được ý thức một
cách đầy đủ. Hơn nữa, các em còn có tính bồng bột, thiếu chín chắn trong suy
nghĩ và thiếu thận trọng trong công việc.
Cho nên nhiều người lớn vẫn xem thiếu niên là trẻ con. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn trong mối quan hệ giữa thiếu niên và người lớn. Khó khăn này sẽ được hóa giải nếu người lớn biết tìm cho thiếu niên một vị trí phù hợp bên cạnh mình, nếu mối quan hệ giữa thiếu niên và người lớn được xem như là mối quan hệ bạn bè, hoặc là mối quan hệ có tính hợp tác với những chuẩn mực đặc trưng của người lớn - đó là sự tôn trọng, tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau.
Theo ba mẹ đến chùa lễ Phật
Đôi
khi chính người lớn đã làm thui chột tính tích cực ấy của thiếu niên. Sự đánh
giá thấp, xem thường và định kiến của người lớn đối với thiếu niên là nguyên
nhân chủ yếu. Để phát huy tính tích cực xã hội của các em và hướng những khát
vọng của các em vào mục đích có ý nghĩa nhất định thì cần phải tôn trọng các
em, biết lắng nghe ý kiến của các em và không quá khắt khe trong việc đánh giá
các em.
Cần tổ chức các hoạt động xã hội có tính tích cực và tạo điều kiện cho
các em tham gia, làm sao thu hút được sự tham gia của các em một cách tích cực
nhất. Có thể thông qua những hoạt động tập thể, những buổi sinh hoạt tập thể để
giáo dục cho các em những đức tính cao đẹp, khơi dậy và làm nảy nở những nghĩa
cử cao đẹp trong các em thông qua những mẩu chuyện, những tấm gương sáng trong
văn học hay trong hiện thực của cuộc sống.
Và có thể thông qua sự gương mẫu của chính bản thân những người đang trực tiếp hướng dẫn, giáo dục các em. S.Smiles đã khẳng định rằng: "Sự gương mẫu dù nó có im lặng cách mấy vẫn là yếu tố giáo dục mạnh nhất trần gian".
Ở
lứa tuổi thiếu niên, các em bắt đầu biết ý thức về bản thân mình. Các em biết
tự đánh giá mình. Vấn đề này đã giúp cho các em bắt đầu nhận thức rõ hơn về bản
thân, biết đánh giá về những mặt tốt và chưa tốt của mình. Sự nghĩ về tự thân,
suy ngẫm về thế giới nội tâm của các em cũng đã mở rộng sang cả lĩnh vực xúc
cảm gắn với sự phân tích, đánh giá những tình cảm đã trải nghiệm.
Vì thế có một
số em tỏ ra hối hận, ăn năn về những tình cảm không tốt của mình, đôi khi các
em căm thù chính bản thân. Sự mặc cảm, tự ti cũng xuất phát từ đây. Mặt khác, sự
tự ý thức của các em thiếu niên dựa trên cơ sở đánh giá của người lớn, trước
hết là của cha mẹ, của những người lớn trong gia đình, của những người dạy bảo
và hướng dẫn các em.
Do đó, để giúp các em đánh giá phù hợp về bản thân và không đưa đến những tâm lý tiêu cực (tự ti, mặc cảm) thì người lớn cần có sự đánh giá phù hợp về các em, không được phủ đầu, chụp mũ các em, không nên quá khắt khe với các em. Cần động viên, khích lệ các em và khen ngợi các em khi đáng khen. Và một điều không kém phần quan trọng là người lớn phải tôn trọng, giữ thể diện cho các em, không nên bêu xấu các em trước đám đông.
Trên
cơ sở tự ý thức và nhận thức về thực tiễn cuộc sống đã hình thành ở các em
thiếu niên khả năng tự giáo dục. Các em có khát vọng muốn làm chủ những phản
ứng, những cảm xúc và toàn bộ hành vi của mình. Các em muốn khắc phục những
khuyết điểm, sai lầm, những nét tính cách không tốt và phát huy những nét tính
cách tốt của bản thân.
Ở các em có sự định hình nhân cách của mình, hướng đến những chuẩn mực đạo đức, những mục đích nhất định. Các em biết hướng đến tương lai. Ý chí, nghị lực và tính kiên nhẫn là những yếu tố hết sức quan trọng, quyết định đến kết quả của quá trình tự giáo dục ở các em. Vì thế, giáo dục ý chí, nghị lực và tính kiên nhẫn cho các em là nhiệm vụ hết sức quan trọng của người làm công tác giáo dục.
Cùng với hướng phát triển đó, đời sống tình cảm của các em thiếu niên cũng sâu sắc và phức tạp hơn. Đặc điểm nổi bật của lứa tuổi này là các em dễ bị kích động, vui buồn chuyển đổi dễ dàng, tình cảm còn mang tính bồng bột, hăng say và đôi khi có sự mâu thuẫn.
Tuy vậy, tình cảm của các em cũng đã bắt đầu biết phục tùng lý trí, tình cảm đạo đức được phát triển mạnh.
Tình bạn bè, tình đồng chí, tinh thần tập thể cũng được phát triển mạnh. Tình bạn của các em hình thành trên cơ sở cùng học tập, cùng sinh hoạt và cùng chung một sở thích, hứng thú.
Trong quan hệ bạn bè, các em đối với nhau rất chân tình, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Các em tin tưởng nhau và kể cho nhau nghe những điều thầm kín nhất của mình. Các em muốn được hoạt động chung với bạn như muốn lao động chung, chơi thể thao chung, giải trí chung…
Tham dự khóa tu mùa hè tại chùa Hoằng Pháp, Hóc Môn -
Ảnh: G.Thông
Bên
cạnh sự mong muốn được giao thiệp với bạn bè, không thể không kể đến mối thiện
cảm và sự quan tâm đến các bạn khác giới có cùng lứa tuổi. Sự quan tâm này được
biểu hiện khác nhau ở các em trai và các em gái. Ở tuổi thiếu niên, có em đã có
"những rung cảm đặc biệt" đối với người bạn khác giới.
Có thể khẳng
định rằng, đây là hiện tượng bình thường. Cảm tình và sự thân thiết đối với bạn
khác giới cùng học ở lứa tuổi thiếu niên có ý nghĩa không nhỏ đối với sự phát
triển nhân cách của các em. Các em có thể động viên, giúp đỡ lẫn nhau, khơi gợi
cho nhau và thúc đẩy nhau làm việc tốt, bảo vệ lẫn nhau.
Đấy là một động lực
rất lớn giúp các em tự hoàn thiện bản thân mình. Tất nhiên, trong quan hệ nam
nữ ở lứa tuổi này cũng có thể có sự lệch lạc, đưa các em đến chỗ đua đòi chơi
bời, bỏ cả việc học tập và các công việc khác. Vì thế, những người làm công tác
giáo dục phải thấy được điều này để hướng dẫn, uốn nắn cho tình bạn khác giới
này sao cho lành mạnh, trong sáng.
Và cần có sự tác động khéo léo, tế nhị, tránh những tác động thô bạo đem đến những kết cục thương tâm. Có những em thiếu niên đã phải tìm đến cái chết do sự tác động không đúng đắn của người lớn trong quan hệ tình bạn khác giới của mình.
Nói tóm lại, các em thiếu niên có đặc điểm tâm lý khá phức tạp, có nhiều biến đổi và phát triển hơn trước. Nếu đối xử đúng mực với các em và biết định hướng cho các em thì các em sẽ tiến bộ rất nhiều, sẽ trở nên những người tốt. Ngược lại, nếu người lớn hành xử không đúng mực với các em, thiếu quan tâm đến các em thì rất dễ khiến các em có những biểu hiện lệch lạc, sai phạm đáng tiếc.
Định hướng nếp sống tâm linh cho các em thiếu niên
Như trên đã trình bày, tuổi thiếu niên là lứa tuổi có nhiều biến động về tâm sinh lý, là lứa tuổi không còn là con nít mà cũng chưa phải người lớn. Vì thế, để định hướng nếp sống cho các em, ở đây chúng tôi nhắm đến nếp sống theo con đường tâm linh của đạo Phật, thì phải hiểu rõ về các em.
Trong phạm vi gia đình, muốn hiểu rõ về các em, trước hết cha mẹ phải thường xuyên quan tâm, chăm sóc các em, gần gũi sẻ chia, tâm sự với các em, đừng để các em bị lạc lõng bơ vơ, thiếu thốn tình cảm.
Để dẫn dắt cho con em mình theo nếp sống tâm linh của Phật giáo, là những người Phật tử, các bậc phụ huynh cần phải nêu gương cho các em. Phải kể đến trước tiên ấy là nêu gương về hiếu hạnh. Theo Phật giáo, hạnh hiếu là hạnh của Phật, tâm hiếu là tâm Phật, thờ cha kính mẹ, hiếu dưỡng mẹ cha cũng chính là kính thờ Đức Phật. Việc đề cao hạnh hiếu của đạo Phật cũng rất gần gũi và phù hợp với quan điểm đạo đức của người Việt Nam chúng ta. Trong kho tàng ca dao Việt Nam có câu:
"Nếu mình hiếu với mẹ cha
Thì con cũng hiếu với ta khác gì
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công".
Ở
lứa tuổi thiếu niên, các em đã có khả năng nhìn nhận và đánh giá vấn đề, đánh
giá người khác, vì vậy, để giúp các em có niềm tin vào đạo Phật, mến mộ đạo
Phật thì cha mẹ phải thể hiện cho các em thấy được những lợi ích và công năng
của Phật pháp, và điều đó được thể hiện cụ thể, sinh động qua tấm gương đạo
đức, nếp sống hàng ngày của cha mẹ.
Cha mẹ phải sống hòa hợp, thương yêu, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, tôn trọng nhau, đối xử với nhau một cách hòa nhã, ân cần, nhường nhịn lẫn nhau, đồng thời biết sẻ chia, quan tâm giúp đỡ người khác, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn. Nói chung, cha mẹ phải thể hiện mình là một người Phật tử chơn chánh, làm đúng như những gì Đức Phật đã dạy. Sự gương mẫu của cha mẹ có sức ảnh hưởng, tác động rất lớn đến con cái.
Một khi con em mình đã có sự mến mộ, cảm tình đối với đạo Phật rồi thì bắt đầu dẫn dắt các em dần dần tiến theo con đường tâm linh của Phật giáo. Việc hướng dẫn bắt đầu từ những việc làm đơn giản ở trong gia đình, chẳng hạn: bảo các em thắp hương ở bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên, hướng dẫn các em thắp hương cho đúng cách, nói cho các em hiểu về ý nghĩa của việc thắp hương; những lúc ba mẹ hành lễ hay tụng niệm thì bảo các em cùng tham gia; nếu cha mẹ có đi chùa tụng kinh, nghe pháp thì dắt các em theo cùng để các em cũng biết tụng kinh, được nghe những lời dạy bảo của chư Tăng, giúp các em hiểu thêm về đạo Phật, về những nguyên tắc đạo đức, những chuẩn mực trong cuộc sống.
Làm
việc thiện cũng là một trong những việc làm có ý nghĩa trong nếp sống của người
Phật tử, cho nên cha mẹ cần phải làm gương cho con em mình trong vấn đề này.
Không những thế, cha mẹ cần phải hỗ trợ và hướng dẫn cho các em biết làm việc
thiện, biết đồng cảm và sẻ chia, giúp đỡ những người tàn tật, những người có
hoàn cảnh khó khăn, những người nghèo khổ,…
Nếu cha mẹ có tham gia các hoạt động từ thiện thì nên cho con em mình đi cùng, để các em được tận mắt chứng kiến những mảnh đời khó khăn, đau khổ, để các em tận tay giúp đỡ, chia sẻ và trao tặng những món quà từ thiện đến người bất hạnh. Nhờ vậy mà lòng nhân ái, tình thương yêu và sự đồng cảm trong các em ngày càng được lớn mạnh.
Hiện
nay ở nước ta có những đoàn thể, tổ chức cũng như các hoạt động của Phật giáo
để cho các em thiếu niên tham gia sinh hoạt, học tập, tu dưỡng thân tâm, chẳng
hạn như tổ chức Gia đình Phật tử, các Hội thanh thiếu niên Phật tử, các khóa tu
mùa hè, khóa tu ngắn ngày, các hội trại,…
Đấy là những môi trường tốt để cho các em thiếu niên tham gia sinh hoạt, giúp các em có cơ hội thể hiện bản thân, để các em biết sống hòa đồng, hòa hợp trong tập thể, thiết lập những mối quan hệ thân thiện, tốt đẹp giữa những bạn đồng tu, đồng sinh hoạt với nhau, để cùng giúp nhau tu học, cùng nhau tiến bộ. Vì thế, cha mẹ nên động viên, khuyến khích và tạo điều kiện để cho các em tham gia sinh hoạt, tu học trong những đoàn thể, tổ chức ấy.
Có
một sinh hoạt không kém phần quan trọng trong nếp sống gia đình, góp phần thắt
chặt mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với nhau, để cho không khí
gia đình thêm ấm cúng, đó là việc tổ chức những giờ sinh hoạt gia đình.
Các bậc
phụ huynh Phật tử nên tổ chức các giờ sinh hoạt gia đình theo định kỳ, có thể
là cha mẹ, con cái cùng ngồi lại bên nhau, cùng xem một bộ phim truyện Phật
giáo, rồi cùng nhau thảo luận về bộ phim ấy, rút ra bài học và những thông điệp
mà bộ phim ấy muốn chuyển tải; hoặc là cùng ngồi lại bên nhau để nghe một đoạn pháp
thoại ngắn trong video rồi cùng nhau thảo luận để cho mọi người hiểu sâu hơn về
lời Phật dạy, đồng thời tìm cách ứng dụng những lời dạy ấy vào trong cuộc sống;
hoặc đơn giản là đọc lên một bài báo, một mẩu chuyện có tính giáo dục rồi các
thành viên nêu lên nhận xét, quan điểm của cá nhân về bài báo hoặc mẩu chuyện
đó, và rút ra bài học cho bản thân,...
Những giờ sinh hoạt gia đình như thế có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục, định hướng nếp sống cho các em thiếu niên. Qua những lời nhận định, ý kiến thảo luận, trình bày quan điểm của các em, cha mẹ có thể hiểu được khả năng tư duy, trình độ của các em, cũng như biết được quan điểm sống của các em, và từ đó mà có sự điều chỉnh, định hướng cho phù hợp.
Đấy
là sự định hướng cho các em thiếu niên trong phạm vi gia đình. Trong phạm vi xã
hội, các tổ chức đoàn thể, nhất là các tổ chức, đoàn thể của Phật giáo, các
chùa và chư Tăng Ni có thể làm gì để góp phần định hướng nếp sống tâm linh cho
các em thiếu niên?
Trước hết, chư Tăng Ni, các anh chị huynh trưởng trong Gia
đình Phật tử, các anh chị em trong Ban điều hành các hội, đoàn Thanh thiếu niên
Phật tử phải là những tấm gương sáng về đạo đức, có nếp sống lành mạnh để làm
điểm tựa tinh thần, củng cố niềm tin đối với đạo Phật, đối với con đường Chân-Thiện-Mỹ
mà Đức Phật đã dạy ở nơi các em. Thường xuyên tổ chức các khóa tu, các hội
trại, hoặc các hoạt động tập thể cho các em thanh thiếu niên tham gia, với các
chủ đề, nội dung nhắm vào lứa tuổi thanh thiếu niên.
Tổ chức các buổi pháp đàm, pháp thoại với những đề tài gần gũi với cuộc sống của các em thanh thiếu niên, lắng nghe và tôn trọng quan điểm, ý kiến của các em, quan tâm chia sẻ, động viên, khích lệ các em trong cuộc sống, phối hợp với phụ huynh để hỗ trợ, định hướng cho các em khi các em rơi vào hoàn cảnh khó khăn hoặc khi các em có dấu hiệu sa ngã.
Đối
với xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục, để định hướng nếp sống cho các
em thiếu niên, nếp sống đạo đức nói chung, nên đưa nhiều nội dung giáo dục đạo
đức vào trong chương trình học của các em. Những bài học về đạo lý nhân quả, về
nghiệp báo, nên chính thức đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy cho các em.
Trong nhà trường nên tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động từ thiện ngoại khóa,
các hoạt động phúc lợi xã hội cho các em tham gia, ví dụ như cho các em đi thăm
các trại trẻ mồ côi, các viện dưỡng lão, kêu gọi các em dành dụm tiền cá nhân
để ủng hộ các bạn nghèo, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, ủng hộ những
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cho các em xem những phóng sự về gương người tốt
việc tốt,…
Những bài học đạo đức, các hoạt động ngoại khóa như thế sẽ góp phần hình thành nhân cách đạo đức cho các em, giúp các em biết cảm thông, chia sẻ với những người khó khăn, hoạn nạn, để cho các em biết thương người và phấn đấu hoàn thiện bản thân.
Nhìn
chung, giáo dục và định hướng nếp sống cho các em thiếu niên là một nhiệm vụ
khó khăn. Nếu thiếu thận trọng thì rất dễ gây ra những phản ứng tiêu cực ở nơi
các em. Định hướng nếp sống đạo đức cho thiếu niên đã khó, định hướng nếp sống
tâm linh của Phật giáo cho thiếu niên lại càng khó khăn hơn. Tại vì, trong khi
giáo dục các em theo nền tảng luân lý, đạo đức của Phật giáo, chúng ta không
được phép làm mất tính cách thiếu niên ở các em.
Vì vậy, để có thể hướng dẫn
các em thiếu niên theo con đường Chân-Thiện-Mỹ thì đòi hỏi người làm công tác giáo
dục phải có lòng thương yêu các em. Điều này thì người Phật tử chúng ta đã sẵn
có. Tuy nhiên, chỉ tình thương thôi thì chưa đủ, chúng ta phải có sự hiểu biết
về đặc điểm tâm sinh lý của các em, phải hiểu rõ hoàn cảnh, điều kiện sống của
các em.
Phải có sự khéo léo, thông minh, phải có sự kiên trì, nhẫn nại và phải có một tâm hồn tươi trẻ. Sự sai lầm trong lao động, sản xuất có thể sửa đổi được, chứ những lầm lỗi trong giáo dục, dù là rất nhỏ cũng khó lòng tẩy sạch. Vì vậy, các bậc phụ huynh, và những ai làm công tác giáo dục cần phải hết sức thận trọng.
(1) Arthur S. Reber và Emily S. Reber (2001), The Penguin Dictionary of Psychology, 3rd Edition, Penguin Reference, New Delhi, p.13.
(2) Bonnie R. Strickland (Executive editor, 2001), The Gale Encyclopedia of Psychology, 2nd Edition, Gale Group, USA, p.11.
Quảng Trí ( Nguyệt San Giác Ngộ 176)
Tài liệu tham khảo 1- Arthur S. Reber và Emily S. Reber (2001), The Penguin Dictionary of Psychology, 3rd Edition, Penguin Reference, New Delhi. 2- Bonnie R. Strickland (Executive editor, 2001), The Gale Encyclopedia of Psychology, 2nd Edition, Gale Group, USA. 3- Irving B. Weiner (Editor-in-Chief) (2003), Handbook of psychology, Volumn 6: Psychological development, John Wiley & Sons, Inc., Canada. 4- Spencer A. Rathus (1993), Psychology, 5th Edition, Harcourt Brace College Publishers, USA. 5- Vũ Thị Nho (2003), Tâm lý học phát triển, in lần thứ hai, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự