“Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ vào buổi sáng sớm, Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Lúc ấy có một Bà-la-môn tuổi già sức yếu, chống gậy cầm bát đi khất thực từng nhà. Bà-la-môn này từ xa nhìn thấy Đức Thế Tôn liền tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm chống gậy bưng bát, đi khất thực từng nhà. Ta cũng chống gậy ôm bát đi khất thực từng nhà. Ta cùng Cù-đàm đều là Tỳ-kheo’.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ để trả lời:
Được gọi là Tỳ-kheo
Chẳng chỉ vì khất thực
Kẻ trì pháp tại gia
Sao được gọi Tỳ-kheo?
Đã lìa dục tai hại
Tu tập các chánh hạnh
Tâm mình không sợ hãi
Đó gọi là Tỳ-kheo.
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn kia nghe những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ làm lễ cáo lui”.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 97)
Pháp thoại ngắn này cho chúng ta thấy ra nhiều điều rất thú vị. Trước hết, người xuất gia đích thị là những kẻ ăn xin, hàng ngày đều phải đi khất thực. Ngày nay tuy vì nhiều nguyên nhân chi phối, người xuất gia không đi hoặc tạm ngừng việc khất thực nhưng bản chất thì vẫn là hành khất, dù phước báo mỗi người cao thấp khác nhau tựu trung đều sống nhờ lòng kính thương của tín thí.
Người xuất gia khác những kẻ ăn xin bình thường ở chỗ ‘tâm lìa dục, không sợ hãi, tu tập chánh hạnh’, nhờ đó mà gọi là Tỳ-kheo. Cùng đi xin ăn, kẻ vẫn ‘trì pháp tại gia’ thì mãi chỉ là hành khất. Vượt lên sự chi phối của tham sân phiền não mới gọi là Khất sĩ, Tỳ-kheo. Đây mới là chuẩn mực của Tỳ-kheo theo tinh thần Phật dạy.
Bà-la-môn kia đi xin ăn, thấy Phật và chư Thánh chúng cũng đi xin ăn giống mình, liền nghĩ vậy mình cũng là Tỳ-kheo. Bà-la-môn kia chỉ có một hạnh xin ăn là giống Tỳ-kheo thôi, còn tâm và các hạnh khác thì không giống. Ngay cả trong hội chúng các Tỳ-kheo với nhau, người nào chưa thành tựu ‘tâm lìa dục, không sợ hãi, tu tập chánh hạnh’ thì cũng chỉ là tương tợ Tỳ-kheo mà thôi.
Nguồn tin: Giác Ngộ
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự