Lễ húy kỵ lần thứ 21 cố TT. Thích Minh Phát tại TĐ Ấn Quang

Thứ sáu - 21/04/2017 07:28
Sáng ngày 20.03. Đinh Dậu tại Tổ đình Ấn Quang môn đồ tứ chúng đã cử hành lễ húy kỵ lần thứ 21 cố TT. Thích Minh Phát, Nguyên phó Ban quản trị Tổ đình Ấn Quang.
Lễ húy kỵ lần thứ 21 cố TT. Thích Minh Phát tại TĐ Ấn Quang
Chứng minh buổi lễ có HT.Thích Thiện Tánh, Phó Chủ tịch HĐTS, Phó ban Thường trực BTS GHPGVN TP.HCM; HT.Thích Tịnh Hạnh, HT.Thích Như Tín - đồng Phó BTS GHPGVN TP.HCM cùng chư tôn đức trong Thường trực BTS GHPGVN TP.HCM, chư tôn đức trụ trì các tự viện trên địa bàn Q.3, Q.10, môn đồ pháp quyến, Phật tử các nơi về tham dự.

Cố TT.Thích Minh Phát  sinh ngày 20-5-1956, được bổn sư là HT.Thích Thiện Hòa cho quy y, đặt pháp danh là Thích Minh Phát, pháp hiệu Nguyên Đức. Nhà của điệu Nguyên (thời còn làm điệu) ở xóm Vườn Lài, gần đầu ngõ trước chùa Ấn Quang.

Thượng toạ thế danh Lê Nhựt Nguyên, pháp danh Nguyên Đức, pháp hiệu Minh Phát. Sinh ngày 20 tháng 06 năm 1956 (Bính thân) tại Chợ lớn (nay là quận 10, TP.HCM). Phụ thân là ông Lê Thành An, mẫu thân là bà Trương Thị Ba, song thân đều đã từ trần. Thượng toạ được bảy anh chị em, Thượng toạ là người thứ tư trong gia đình.

Được sinh ra trong một gia đình nhân hậu, đời đời kính tin Tam bảo và sẵn túc duyên nên vừa biết đòi ăn là Thượng toạ đã ăn chay, lại gia đình may được ở gần chùa nên Thượng toạ thường theo mẹ sang chùa lạy Phật. Nhờ đó mà hạt giống Bồ-đề ngày càng phát triển.

Năm 1964, Thượng toạ được song thân cho xuất gia học đạo với cố Hoà thượng Thích Thiện Hòa, viện chủ tổ đình Ấn Quang, Giám đốc Phật học đường Nam Việt.

Năm 1971, Thượng toạ thọ giới Sa-di với cố Hòa thượng Thích Trí Thủ tại giới đàn ở tu viện Quảng Đức (Thủ Đức).

Năm 1975, với hạnh nguyện sâu dầy, oai nghi đĩnh đạc, Thượng toạ được Hòa thượng Bổn sư cho thọ giới Tỳ-kheo và Bồ-tát tại giới đàn chùa Pháp giới (Cầu tre – Tân Bình) do cố Hòa thượng Thích Hành Trụ làm Đường đầu Hòa thượng.

Năm 1974, Khi Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc được thành lập, Thượng tọa được cử làm chức Phó Tổng Quản sự, kiêm chức tri khố Tổ đình Ấn Quang, chăm lo công việc ăn ở cho đại chúng một cách chu toàn cho đến ngày viên tịch.

Năm 1976, vâng lệnh Hòa thượng Bổn sư và theo sự tha thiết thỉnh cầu của Phật tử chùa Viên Giác, Thượng toạ kiêm nhậm chức trụ trì chùa Viên Giác, quận Tân Bình.

Năm 1978, sau khi Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Thượng tọa được cử làm chức Phó giám đốc Đại Tòng Lâm Phật giáo ở tỉnh Bà  Rịa - Vũng Tàu.

Cùng năm này, Thượng tọa xây dựng chùa Viên Dung ở xã Linh Đông, huyện Thủ Đức. Năm 1992, theo lời thỉnh cầu của Hoà thượng Phước Quang, trụ trì chùa Phụng Sơn, thành hội Phật giáo TP.HCM đã bổ nhiệm Thượng tọa về trụ trì chùa Phụng Sơn.

Năm 1993, sau Đại hội Phật giáo toàn quốc kỳ III, THPG TP.HCM lần thứ IV, Thượng tọa được mời làm Ủy viên Ban TTXH T.Ư, Ủy viên Tiểu ban TTXH PG TP.HCM và Ủy viên Ban TTXH PG quận 10.

Sau ngày 19 tháng 09 năm Quý Dậu, Hòa thượng Tổng Quản sự Tổ đình Ấn Quang viên tịch, Thượng tọa là một trong bốn Thượng tọa lãnh đạo của Tổ đình Ấn Quang, và Thượng tọa đã đảm nhiệm chức Phó ban Quản trị kiêm Tri sự điều hành mọi sinh hoạt của Tổ đình cho đến ngày viên tịch.

Bằng giới đức trang nghiêm thanh tịnh, mô phạm chốn tòng lâm biểu tượng nơi quy hướng cho Tăng Ni và Phật tử, trong những thập niên 1975-1995, Thượng tọa đã từng đảm nhận các chức vụ Phó Ban kiến Đàn, Dẫn Thỉnh sư trong các Đạigiới đàn để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni, Phật tử.

Trong sự nghiệp kế thừa đạo mạch, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, Thượng tọa đã thế độ cho hơn một trăm Tăng Ni xuất gia tu học và hàng ngàn Phật tử quy y Tam bảo, thực hiện hạnh nguyện lợi tha, tu tâm hành thiện, đẹp đạo tốt đời. Ngoài trọng trách vận động tài chánh ẩm thực cho Trường cơ bản Phật học Đại Tòng Lâm, Ni viện Thiện Hòa, Thượng tọa còn nổ lực yểm trợ cho các Trường cơ bản Phật học các tỉnh, thành tại một số địa phương, góp phần đào tạo Tăng Ni tài đức cho Giáo hội và tỉnh hội, thành hội Phật giáo trong cả nước.

Bằng công đức trang nghiêm ngôi Tam Bảo là trang nghiêm Tịnh độ của chư Phật, Thượng tọa đã kế thừa sự nghiệp của cố Hòa thượng Bổn sư, đã nổ lực vận động tài chánh trùng tu ngôi Tổ đình Ấn Quang, chùa Long Triều, kiến thiết Đại Tòng Lâm Phật giáo, chùa Huệ Nghiêm, Dược Sư, Viên Giác, Phụng Sơn và Khánh Đức (Sông Bé).

Qua phúc đức trang nghiêm, túc duyên thù thắng, hạnh nguyện kỳ diệu, năng lực phi thường, có thể nói Thượng tọa là Y chỉ sư của toàn thể Ni giới. Nhất là đối với những hàng Tăng Ni, Phật tử có đủ thiện duyên khi được diện kiến, qua lời từ nhã, cử chỉ dịu dàng, tỏa sáng gương lành, tâm hồn thuần hậu của Thượng tọa, tất cả đều được an lạc thoả mãn mong cầu và phước lành thêm lớn, trong ý nghĩ diệu lực thù thắng bất khả tư nghì của đạo Phật.

Ngoài ra, Thượng tọa còn dành nhiều thời gian biên soạn những tấc phẩm để lưu lại cho hậu thế, gồm có: Đời sống Đức Điều Ngự, Xuân Vô Năng Thắng, Giai thoại nhà Thiền, các nghi thức tụng niệm và chúc tán, Khoa cúng Tổ Kiều Đàm Di Mẫu, Tu Chỉnh Giới đàn Ni, Các tập thi phú v.v…. 

Kể từ năm 1994, Thượng tọa đã trải qua cơn bịnh ngặt nghèo, sức khỏe có phần giảm sút nhưng Thượng tọa vẫn nổ lực kiên trì thi hành Phật sự, lợi lạc quần sanh, quyết tâm đi cho trọn con đường phụng sự đạo pháp và nhân sinh…

Và sau một cơn bịnh nhe, Thượng tọa đã xả báo an tường, thu thần thị tịch, trở về thế giới Niết bàn bất sinh bất diệt vào lúc 6 giờ 40 ngày 21 tháng 03 năm Bính Tý (nhằm ngày 08-05-1996), trụ thế 41 năm, Hạ lạp 21 năm.

Nguồn tin: PTVN.NET

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây