TP.
Hồ Chí Minh, Ngày 23 tháng 7 năm 2009
Kính
thưa quý vị,
Theo
thông tin trên Tuổi Trẻ Online ngày 29/6/2009, tôi được biết ông Phạm Văn Hạng
(TP.HCM) vừa có “văn thư” gửi đến HĐND, UBND TP. Hà Nội cùng Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam để nêu ý muốn tặng tượng ông Alexandre de Rhodes cho thủ đô nhân kỷ
niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Bài
báo cũng cho biết thêm, chính quyền Hà Nội cũng đã có thư trả lời ông Phạm Văn
Hạng, hẹn sẽ cử đoàn vào Bình Dương xem qua tác phẩm. Sau bản tin ấy, liền có ý
kiến nhắc lại tấm bia vinh danh Alexandre de Rhodes từng được đặt tại Hồ Gươm
năm 1941 để gợi ý nơi đặt tượng.
Việc
một cá nhân ưa thích ai và tạc tượng người ấy để kỷ niệm, thờ phượng hay muốn
đặt ở đâu là chuyện riêng trong phạm vi quyền hạn của họ, không nhất thiết phải
có ý kiến. Nhưng việc nhân danh toàn dân tộc đặt một pho tượng nơi công cộng để
kỷ công một người nào đó thì mọi người dân đều có quyền có ý kiến.
Muốn
nhân danh toàn dân tộc để kỷ công một người nào đó thì người ấy phải thật sự có
công đối với toàn dân tộc. Công và tội của nhân vật Alexandre de Rhodes đối với
dân tộc Việt
Mặt
khác, cũng có không ít tư liệu chứng tỏ trước khi có chữ quốc ngữ theo mẫu tự
Latin thì người Việt cũng đã có cả một nền văn học chữ Nôm, nghĩa là người Việt
đã có chữ quốc ngữ do chính mình sáng tạo, và chỉ vì sức mạnh của thực dân Pháp
mà chữ quốc ngữ ấy mai một, nên không thể nói rằng việc thủ tiêu chữ Nôm và
thay thế bằng chữ Việt (Latin hóa) là một việc làm tốt đẹp.
1.
Sử liệu cho biết, Alexandre de Rhodes (1593-1660), người Pháp, gốc Do Thái, gia
nhập dòng Tên tại Roma ngày 24/4/1612, vào Việt Nam năm 1624 [thời điểm
Lê/Trịnh đàng Ngoài và chúa Nguyễn đàng Trong có những chính sách rất cởi mở
với thương nhân và chú trọng đẩy mạnh quan hệ ngoại thương. Chúa Trịnh còn nhận
thương nhân Carel Hartsink người Hà Lan làm con nuôi], học tiếng Việt từ một
cậu bé 13 tuổi và được sự chỉ dạy bài bản của giáo sĩ Francisco de Pina người
Bồ. Tháng 7/1626 bị trục xuất về Ma Cao. Ông tiếp tục trở lại và bị trục xuất
vĩnh viễn khỏi Việt
Alexandre
de Rhodes không phải người sáng tạo ra chữ quốc mà chỉ là người biên soạn từ
điển qua các công trình của người khác. Chính ông đã xác nhận: “… công việc này
ngoài những điều tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai
năm thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh, thì ngay từ đầu
tôi đã học với Cha Francisco de Pina người Bồ-đào-nha…, tôi cũng sử dụng những
công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de
Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển:
ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ-đào, nhưng cả hai
ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La-tinh
theo lệnh các Hồng y, vì ngoài những tiện lợi khác, nó còn giúp ích cho chính
người bản xứ học tiếng La-tinh…” (1).
Roland
Jacques đã phát hiện công bố bản viết tay năm 1623 của Francisco de Pina: “Về phần
tôi, tôi đã biên soạn một chuyên luận nhỏ về từ vựng và các thanh của ngôn ngữ
này (tức tiếng Việt) và tôi đang bắt tay viết về ngữ pháp. Tuy nhiên, tôi cũng
đã tập hợp được những cổ tích, thuộc nhiều loại khác nhau, nhằm cung cấp các
trích dẫn của các tác giả để xác minh nghĩa của các từ và các quy tắc của ngữ
pháp, cho đến nay tôi có thể yêu cầu một người nào đó đọc để tôi phiên dịch
sang các chữ Bồ Ðào Nha (tức chữ La tinh)... Ngoài ra, tôi đã có ba bốn cuốn
tập hợp các bài viết có lý luận trong số các bài viết hay nhất mà tôi tìm thấy
được ở Vương quốc nầy". (Nguyễn Phước Tương, Ai là người thật sự sáng chế
ra chữ Quốc ngữ?, Tạp chí Huế, Xưa & Nay số 62 tháng 3-4/2004) (2).
Kể
kể từ khi cuốn từ điển này ra đời năm 1651, nó cũng không có tác dụng gì tới
việc học chữ quốc ngữ của người Việt
Đặc
biệt trong các tác phẩm chữ Nôm của Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715),
lối hành văn tiếng Việt không khác nhiều so với ngày nay [trong Hương Hải thiền
sư ngữ lục cũng nói đến sự kiện một số giáo sĩ Hoa Lang bị trục xuất khỏi Việt
Nam – Lê Mạnh Thát, Toàn tập Minh Châu Hương Hải, NXB TPHCM, 2000, tr.116]. Vua
Quang Trung (1753-1792) không chỉ sử dụng chữ Nôm trong văn bản hành chính mà
còn chính thức đưa chữ Nôm vào trong thi cử. Ông chủ trương thay toàn bộ sách
học chữ Hán sang chữ Nôm nên năm 1791 đã cho lập “Sùng chính viện” để dịch kinh
sách từ Hán sang Nôm.
Chữ
Nôm [ký âm tiếng Việt] chính là chữ Quốc ngữ mà ông cha ta sáng tạo. Điều đó
khẳng định VIỆT NAM LÀ MỘT NƯỚC CÓ VĂN TỰ. Người Pháp đã tìm mọi cách thủ tiêu
văn tự (Nôm) của chúng ta, thế mà còn lớn lối nói rằng đã đem đến cho chúng ta
một chữ viết (Latin). Đây là hành vi thủ tiêu (chữ viết) và tranh công (sáng
tạo) nực cười nhất trong lịch sử chữ viết của nhân loại. Không những thế, vì
một cuốn từ điển được biên soạn lại qua công trình của người Bồ, mà một số
người Pháp không ngượng miệng nói rằng: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh,
Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ” (Nguyệt san MISSI).
Ngày
23/1/1576, Giáo hoàng La Mã Gregory VIII ban sắc lệnh, chính thức thành lập
giáo phận Bồ Đào Nha tại Ma Cao. Phạm vi cai quản của giáo phận này gồm Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và các vùng lân cận.
Nhưng
đến nửa đầu thế kỷ 18, tại châu Âu dấy lên cuộc vận động trục xuất các giáo sĩ
dòng Tên. Ngày 3/9/1759, Thủ tướng Pombal ban hành pháp lệnh, coi dòng Tên là
kẻ phản bội, kẻ địch và kẻ xâm lược của vua và nhà nước. Ngày 21/7/1773, Giáo
hoàng Clement XIV ban sắc lệnh, tuyên bố chính thức thủ tiêu dòng Tên. Những sự
kiện này dẫn đến sự tan rã của giáo phận Bồ tại Macao (3).
Một
điều đáng chú ý, tại Giáo phận Macao, năm 1594, Học viện St. Paul''s - trường
đại học phương Tây đầu tiên ở Viễn Đông đã hình thành, ngoài các môn thần học,
văn học và nghệ thuật ra, trường còn dạy các ngôn ngữ của khu vực Viễn Đông như
tiếng Hán và tiếng Việt...
Theo
GS. Thang Khai Kiến, Đại học Ký Nam, Quảng Châu, Trung Quốc: “Sau khi Nhật Bản
xẩy ra nạn cấm đạo, các dòng tu Macao hết sức coi trọng việc khai thác và phát
triển công cuộc truyền giáo ở Việt Nam. ở Học viện St. Paul''s, để đáp ứng nhu
cầu truyền giáo ở Việt Nam, việc dạy tiếng Việt là điều hết sức quan trọng.
Theo ghi chép của Linh mục Maldonado, năm 1667, học viện có hai môn học tiếng,
tiếng Việt là một trong hai môn đó. Năm đó có 8 linh mục học tiếng Việt, nhưng
chỉ có 6 linh mục học tiếng Trung Quốc. Theo thống kê không đầy đủ, trong thế
kỉ XVII, có 70 giáo sĩ phương Tây đã đến Việt Nam, trong đó số giáo sĩ đến từ
Macao chiếm tỉ lệ rất lớn” (4).
Như
thế, rõ ràng tiếng Việt được ký âm bằng chữ cái La-tinh đã được phát triển dần
dần từ rất lâu trước đó do nhu cầu tiếp cận với người bản địa của các giáo sĩ
thuộc Giáo phận Bồ Đào Nha [làm nền tảng cho quyển tự điển Việt-Bồ-La mà
Alexandre de Rodhes đã cho in năm 1651].
2.
Alexandre de Rhodes là người có ý định xin vua Louis XIV của Pháp cung cấp binh
lính để chinh phục phương Đông. Trong cuốn Divers voyages et missions (Các cuộc
hành trình và truyền giáo), xuất bản tại Paris năm 1653 ở đoạn cuối chương 19,
phần thứ 3 có một câu nguyên văn: “J’ai cru que la France, étant le plus pieux
royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de
tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y
trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos pères et nos maitres en
ces Églises. Je suis sorti de Rome à ce dessein le 11e Septembre de l’année
1652 après avoir baisé les pieds du Pape”.
Câu
này được Hồng Nhuệ (linh mục Nguyễn Khắc Xuyên) dịch:“Tôi tưởng nước Pháp là
một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ
đi chinh phục toàn cõi Đông Dương đưa về quy phục chúa Kitô và nhất là tôi sẽ
tìm được các giám mục, cha chúng tôi và Thày chúng tôi trong các giáo
đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Roma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tôi hôn chân
Đức Giáo hoàng.” ("Hành trình và truyền giáo” - Ủy ban Đoàn kết Công giáo
TP.HCM, 1994, tr. 263. Người dịch còn chú thích từ chiến sĩ ở đây: nói chiến sĩ
Phúc Âm tức là nhà truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm xứ xăm lăng -
tr. 289).
Trong
bài viết “Ai làm ra chữ quốc ngữ?” đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 31/1/1993, Giáo
sư Hoàng Tuệ đã dịch plusieurs soldats là binh lính như sau: “Tôi nghĩ nước
Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn
phương Đông, đặt nó dưới quyền Jésus Christ”. Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên đã
viết bài “Gửi GS Hoàng Tuệ bàn về chữ Quốc ngữ trên tờ Tuổi Trẻ” đăng trên báo
Ngày Nay số 277 ngày 1/7/1993 ở Houston, Texas. Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên đã
mạt sát GS Hoàng Tuệ là "ngu xuẩn", "ngu dốt", "thật
là dốt lại thích nói chữ"... và đã chất vấn GS. Hoàng Tuệ như sau: “Từ
điển Pháp Việt của Trương Vĩnh Ký dịch soldat là ‘lính, binh lính, lính tráng’.
Từ điển Pháp Việt của Đào Duy Anh dịch soldat là ‘lính, bộ đội, chiến sĩ...’”
Như vậy GS Hoàng Tuệ lùi lại hơn nửa thế kỷ khi chỉ dịch theo Trương Vĩnh Ký mà
không theo từ điển mới nhất 1981 (sic) (5).
Theo
Tự Điển Từ Nguyên (Dictionaire Étymologique), từ Soldat: mượn từ tiếng Ý,
Soldato (từ Soldare, Solde); được biến đổi từ chữ Sondart (từ thế kỷ 14 đến thế
kỷ 17) thành Soldat, có nghĩa là người đi bắn thuê, giết thuê - Tiré de
Soudoyer "Dictionaire Étymologique, par Albert Dauzat (à l''école pratique
des hautes Études) librairie Larousse - Paris 6, 1938, tr. 671, 672."
Hai
tác giả phương Tây đã hiểu và dịch từ “plusieurs soldats” ra tiếng Anh như sau:
1.
Solange Hertz dịch: “…I thought that France, as the most pious kingdom of the
world, could furnish me many soldiers for the conquest of all the Orient in
order to subject it to Jesus Christ and especially that I could find there some
way of getting bishops for our Fathers and masters in those Churches. I left to
Rome for this purpose on the eleventh of September of the year 1652, after
kissing the Pope’s feet…” (Divers Voyages & ..., Solange Hertz,
Newman Press, Westminter, Maryland 1966, trang 237).
2.
Helen B. Lamb: “Alexandre de Rhodes held to his dream that France should play
the key role in colonizing Vietnam: “I believe that France, as the most pious
of all kingdoms, would furnish me with soldiers who would undertake the
conquest of the whole Orient, and that I would find the means for obtaining
bishops and priests who were Frenchmen to man the new churches. I went toRome
with this plan in mind on September 11, 1652. ” (Vietnam’s Will to Live, Helen
B. Lamb, N.Y. 1972, trang 38, 39) (6).
Nhưng
“Plusieurs soldats” vẫn được dịch là “mấy chiến sĩ” (Nguyễn Khắc Xuyên), “chiến
sĩ có nghĩa bóng là thừa sai” (Nguyễn Đình Đầu), “chiến sĩ truyền giáo” (Đinh
Xuân Lâm) và ông Chương Thâu thì đồng ý với cách dịch này.
Với
những tranh luận xảy ra trên chữ "soldat" này, GS. Cao Huy Thuần đã
dẫn theo từ điển Robert của Pháp:
Soldat:
1. Homme équipé et instruit par l''Etat pour la défense du pays. 2. Tout homme
qui sert ou qui a servi dans les armées.
Dịch: 1. Người được nhà nước trang bị và huấn luyện để bảo vệ xứ sở. 2. Bất kỳ
người nào phục vụ hoặc đã phục vụ trong quân đội.
Như
vậy "soldat” bao hàm ý nghĩa quân sự, quân đội. Đó là người mà nhiệm vụ là
làm chiến tranh, chiến tranh phòng vệ hay chiến tranh xâm lược, dù là nghĩa đen
hay nghĩa bóng. Trong tôn giáo, dùng chữ "soldat” không làm mất đi cái ý
nghĩa đánh nhau. Dù đánh nhau vì chân lý đi nữa, thì cũng đánh nhau và đánh
nhau vì chân lý thì ghê rợn lắm. Đừng trách ai dịch soldat là "binh sĩ”.
Vậy,
việc Alexandre de Rhodes từng có ý định xin vua Louis XIV của Pháp cung cấp
binh lính để chinh phục phương Đông là đã rõ. Dù đã có một số người thêm “nghĩa
bóng” cho từ soldats nhưng ý đồ tiêu diệt các nền văn hóa và tôn giáo khác để
đem toàn cõi Đông Dương về quy phục chúa Kitô vẫn lồ lộ ra đó.
Thực
tế 12 năm ở Việt Nam, Alexandre de Rhodes chẳng để lại bất cứ một ấn tượng gì
ngoài việc 6 lần bị trục xuất.
3.
Năm 1858 Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Ngày 14/11/1874, Đô đốc Hải quân -
Thống soái Nam kỳ François Krantz ký nghị định mở trường Chasseloup-Laubat (tên
của Bộ trưởng Hải quân Pháp) ở Sài Gòn để dạy tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ cho
con em của quan chức người Pháp và người Việt đang cai trị Nam kỳ. Ngày 15/4/1865,
tờ báo tiếng Việt - Gia Định Báo bằng thứ chữ mới, phiên âm theo mẫu tự
la-tinh, lần đầu tiên được phát hành tại Sài Gòn. Ngày 6/4/1878, Đô đốc Hải
quân - Thống soái Nam kỳ Louis Lafont ra nghị định số 82 bắt buộc các công văn,
thư từ hành chính phải viết bằng chữ Quốc ngữ thay vì chữ Hán hay chữ Nôm.
Tháng
5/1906, dụ của vua Thành Thái về tổ chức giáo dục hệ 3 cấp cho bản xứ được một
nghị định của Paul Beau phê chuẩn: ở cấp I, học sinh học cả chữ Hán và chữ Quốc
ngữ; lên cấp II học chữ Hán, chữ Quốc ngữ và một phần tiếng Pháp không bắt
buộc; đến cấp III thì cả 3 thứ chữ đều bắt buộc học như nhau.
Lợi
dụng đúng lúc áp dụng thành công chính sách giáo dục “đồng hóa” triệt tiêu chữ
Hán - Nôm, họ đã tô vẽ cho từ điển công cụ của Alexandre de Rhodes bằng những
từ mà lâu nay một số người nhầm lẫn sử dụng như “cha đẻ”, “sáng tạo”, “công
đầu”… Thực tế, thứ chữ đó sau hơn 200 năm chìm lỉm đã bất ngờ “sống dậy” trong
sự cổ xúy của chính quyền bảo hộ Pháp. Trong hoàn cảnh bị thực dân cai trị và
không đủ tư liệu tham khảo như bây giờ, việc một số người lầm tưởng rồi cổ vũ
và tiến hành việc đặt bia kỷ niệm vị thừa sai này ngay bên cạnh trái tim của
thủ đô Hà Nội là điều không đáng ngạc nhiên.
4.
Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội nhằm tôn vinh tinh thần độc lập, tự chủ,
tự cường, lòng tự hào dân tộc, cũng như bản sắc và văn hiến Thăng Long. Thăng
Long là mảnh đất được thành lập gìn giữ và xây dựng phát triển bởi công lao của
các vị vua Phật tử, các thiền sư, cư sĩ và trí thức Tam giáo, cùng vô số những
người nông dân chân chất tin vào lẽ nhân quả tự ngàn đời, luôn kính ngưỡng
Phật, Pháp, Tăng.
Có
thể thấy Thăng Long - Hà Nội là cái nôi của Phật giáo Việt Nam, của tư
tưởng văn hóa truyền thống dân tộc. Ở đó đã có tượng đài tôn vinh Lý Công Uẩn,
người đặt nền móng cho thủ đô Hà Nội ngày nay. Nếu Ngô Quyền là người đặt nền
móng cho sự độc lập của người Việt thì chính Lý Công Uẩn đã xây dựng cho nền
độc lập đó phát triển nguy nga thêm. Tư tưởng chủ đạo để Lý Thái Tổ xây dựng
nguy nga nền độc lập ấy chính là tư tưởng Tam giáo, mà cốt lõi là Phật giáo.
Ông cũng là người xuất thân nơi nhà chùa.
Thế
mà chúng ta hãy nghe vị thừa sai Alexandre de Rhodes phỉ báng và mạt sát Đức
Phật: “Bởi Tam giáo này, như bởi nguồn độc, nhiều sự dối khác. Song le bắt mỗi
sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường là
dối thì vừa. Như thế có chém cây nào độc cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên
cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích-Ca là thằng hay dối người ta, ngã xuống,
...” (Aleaxandre de Rhodes, Phép giảng tám ngày, tr. 115 & 116, Tủ sách Ðại
Kết, TP. HCM, 1993).
Trong
tư tưởng, vẫn có người áp dụng luật mâu thuẫn đối kháng để phủ định cái có
trước. Nhưng khi đã đặt tượng Lý Công Uẩn làm biểu tượng cho tinh thần người
Việt, lại đặt tượng vị thừa sai người Pháp gốc Do Thái vào đó, phải chăng người
ta muốn tinh thần thừa sai người Pháp gốc Do Thái phủ định tinh thần người
Việt? Không bàn đến công hay tội của Alexandre de Rhodes, người ta thấy ngay
rằng pho tượng của người Pháp gốc Do Thái này không nên để vào bất kỳ một nơi
công cộng nào.
Dân
tộc chúng ta có thiếu người để tôn vinh? Ai đó đã từng nói “lịch sử là một
phòng tranh, trong đó nguyên bản chỉ có một còn phiên bản thì nhiều”. Vì thế,
nếu xem thường việc khinh trọng mà cứ cố dựng cho bằng được tượng Alexandre de
Rhodes tại Hà Nội có thể sẽ di hại đến muôn đời.
Giáo
hội Phật giáo Việt Nam là một định chế thừa kế tinh thần từ các vị quốc sư Ngô
Chân Lưu, Vạn Hạnh, Khuông Việt…, tôi nghĩ rằng, Giáo hội nên có ý kiến chính
thức về vấn đề này. Tôi mong rằng Nhà nước và chính quyền Thành phố Hà Nội cũng
cần cân nhắc kỹ trước khi nhận “quà tặng” tượng Alexandre de Rhodes. Nếu để “sự
đã rồi” thử hỏi Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội có còn nguyên vẹn ý nghĩa
văn hóa, hòa bình cao đẹp nữa không?
Kính
thưa quý vị,
Lịch
sử rất cần nêu cao sự thật, và chân lý thì không cần “người bảo hộ”. Một câu
nói có thể có nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng một nửa sự thật thì vĩnh viễn
không phải là sự thật. Mong sao chúng ta đừng để những nhầm lẫn trong ứng xử
trở thành những nhầm lẫn của lịch sử.
Tôi
xin gửi tới quý vị những ý kiến chân thành trên đây.
Kính
chúc quý vị sức khỏe, hạnh phúc và thành tựu.
Tác giả bài viết: Thích Thanh Thắng
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự