Sáu căn là sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), sáu cánh cửa luôn mở ra để tiếp xúc với sáu trần cảnh (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị ngon, xúc chạm, pháp trần). Khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần cảnh thì cảm thọ vui khổ và tâm yêu ghét có mặt. Nếu yêu thích thì chạy theo, tìm cách chiếm hữu. Nếu ghét bỏ thì tìm cách xua đuổi, khử trừ. Căn không được phòng hộ thì lập tức chúng ta bị tham sân chi phối.
Phần lớn thời gian của đời người là tìm mọi cách để thỏa mãn các giác quan. Trớ trêu là nhu cầu của giác quan không bao giờ thỏa mãn, vì thế mọi khổ đau, không như ý đều bắt đầu từ đây.
“Một thời Đức Phật ở trong vườn Cù-sư-la, tại nước Câu-diệm-di. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Vào thời quá khứ, có đám cỏ trong sông và có con rùa sống trong bụi cỏ ấy. Khi đó có một con dã can đói đi tìm thức ăn. Vừa thấy con rùa, nó vội nhảy tới vồ lấy. Con rùa thấy vậy, liền thu hết đầu đuôi và bốn chân vào trong mai. Dã can canh đợi con rùa thò đầu, chân ra là chụp ăn liền. Nhưng chờ lâu quá, mà nhất định rùa không thò đầu và chân ra. Dã can đói quá, tức tối bỏ đi.
Này các Tỳ-kheo, ngày nay các ông cũng lại biết như vậy. Ma Ba-tuần luôn luôn dò xét tìm cơ hội bên các ông. Mong đợi mắt các ông đắm sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nhớ pháp mà xúi giục sanh tâm đắm nhiễm sáu trần. Cho nên Tỳ-kheo, các ông phải luôn luôn giữ gìn luật nghi của mắt. Khi đã giữ gìn an trụ nơi luật nghi của mắt rồi, dù mắt có sanh khởi hoặc duyên cảnh đi nữa thì ác ma Ba-tuần cũng không thể tìm được cơ hội. Tai mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Dù sáu căn kia có sanh khởi hoặc duyên cảnh đi nữa, thì chúng cũng không thể tìm được tiện lợi. Giống như con rùa, dã can không thể tìm được cơ hội nào.
Bấy giờ Phật liền nói kệ:
Rùa vì sợ dã can
Giấu thân vào trong mai
Tỳ-kheo khéo nhiếp tâm
Giấu kín các giác tưởng
Không nương, không sợ hãi
Kín tâm, chớ nói năng.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành”.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 1167).
Pháp thoại này, Thế Tôn dùng hình ảnh con rùa tự bảo vệ mình trước dã can bằng cách rút đầu đuôi và bốn chân vào trong mai. Giấu càng kỹ, giữ gìn càng chắc thì rùa càng an toàn. Tu tập phòng hộ các căn cũng như vậy. Phòng hộ ở đây không có nghĩa là đóng kín, kiểu che mắt bịt tai. Nền tảng của phòng hộ là an trú vào luật nghi và chánh niệm tỉnh giác khi đối duyên xúc cảnh.
An trú vào luật nghi là cơ sở đầu tiên. Luật nghi là hàng rào bảo vệ, là hành lang an toàn. Sống trong sự bảo hộ của luật nghi giúp mình không phóng túng, lơ đãng, hạn chế tối đa duyên ác. Quan trọng hơn là chánh niệm tỉnh giác khi căn tiếp xúc với trần. Biết rõ tâm ngay đương tại để làm chủ thì tâm không chạy theo cảnh.
Thấy nghe mà sinh tâm yêu ghét lấy bỏ thì chưa khéo phòng hộ, bị lệ thuộc vào trần cảnh bên ngoài. Khi đã chạy theo cảnh trần thì lập tức bị ác ma tóm lấy. Tu căn là vẫn thấy vẫn nghe nhưng cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe, không cho yêu ghét xen vào. Giữ tâm như thế gọi là phòng hộ.
Quảng Tánh