Thi tài hùng biện với anh trai
Katyayana (còn gọi là Ca Chiên Diên) vốn chỉ là họ chứ không phải là tên. Tên của Ca Chiên Diên vốn là Na Da Là nhưng về sau, do ông nổi tiếng, trở thành một trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca, người ta mới dùng họ để gọi ông nhằm tỏ lòng tôn kính.
Từ đó, người ta không còn nhắc nhiều đến tên thật của ông nữa mà chỉ gọi ông là Tôn giả Ca Chiên Diên.
Ca Chiên Diên là con thứ trong một gia đình giàu sang và danh giá ở thôn Di Hầu, nước Avente (A Bàn Đồ), thuộc miền Nam Ấn Độ. Thân phụ của Ca Chiên Diên là một quốc sư của dòng Bà la môn, rất giàu có và được rất nhiều người nể trọng.
Ca Chiên Diên có một người anh cũng là người thông minh, tài trí.
Ngay từ nhỏ, người anh này của Ca Chiên Diên đã quyết tâm theo cha học đạo Bà la môn. Để uyên bác hơn, anh trai của Ca Chiên Diên đã quyết định rời nhà đi ngao du thiên hạ, tham học đạo lý Bà la môn với với các đạo sư danh tiếng.
Sau khi đã học hết kinh điển của Bà la môn, anh trai Ca Chiên Diên trở về quê cũ với ý định lập đàn tràng thuyết giảng kinh Vệ Đà.
Trong khi người anh của mình đi khắp nơi du học thì ở nhà, Ca Chiên Diên cũng theo cha dùi mài kinh sử.
Vì vậy, khi biết anh mình về quê lập đàn thuyết giảng về kinh Vệ Đà, Ca Chiên Diên cũng ra thông báo và lập một giảng đàn đối diện với giảng đàn của anh để thuyết giảng về kinh Vệ Đà để thi tài cùng anh.
Mặc dù từ nhỏ tới lúc ấy chưa bước ra khỏi nhà thế nhưng, Ca Chiên Diên đã nói rất rõ ràng dễ nghe về những nội dung quan trọng nhất của kinh Vệ Đà.
Những người đến nghe hôm ấy đều nhất loạt cho rằng, Ca Chiên Diên thuyết giảng thuyết phục và hay hơn anh trai của mình rất nhiều.
Bị người em nhỏ tuổi làm cho mất mặt trước công chúng, anh trai của Ca Chiên Diên giận lắm, tìm đến phụ thân mách tội, đòi trừng trị thích đáng tội trịch thượng của Ca Chiên Diên. Ngay sau đó, Ca Chiên Diên được triệu đến trước mặt cha và anh mình.
Chàng thiếu niên Ca Chiên Diên khi đó vẫn bình tĩnh và chậm rãi nói: “Thưa cha! Xin cha hãy rộng lượng soi xét, trong lúc anh con đi phương xa học hỏi, ở nhà con cũng theo cha cố công học tập.
Con thiết lập đàn tràng để biết công lao học hỏi nghiên cứu trong những năm qua, kết quả như thế nào chứ không hề có ý cạnh tranh hơn thua.
Trước mặt mọi người, con không rắp tâm dụ dỗ ai. Hai anh em của con sẽ phân trần với nhau, xin cha chớ bận tâm và cũng mong anh con cũng sẽ đồng ý như vậy”.
Cha của Ca Chiên Diên tuy là quốc sư nhưng trước hai đứa con ông đều quý mến, ông cũng không biết phân xử thế nào cho phải. Cuối cùng, ông chỉ đành hứa là sẽ cho biết ý kiến sau.
Sau khi hai anh em Ca Chiên Diên đều đã ra về, quốc sư đem chuyện bàn với phu nhân.
Cuối cùng hai người quyết định, để làm an lòng anh của Ca Chiên Diên, và cũng để bảo tồn danh dự cho ông ta, Ca Chiên Diên sẽ được gửi qua núi Tần Ðà, ở phương Namhọc đạo với tiên A Tư Ðà.
Lời dặn dò của bá phụ
Tiên A Tư Đà vốn là anh trai của thân mẫu Ca Chiên Diên. Ông là một vị tiên nhân uyên bác, được nhân dân Ân Độ rất nể trọng thời bấy giờ.
Chuyện kể rằng, khi thái tử Tất Đạt Đa, người sau này trở thành Phật Thích Ca sinh ra đời, A Từ Đà đã nhận lời đức vua Tịnh Phạn tới xem tướng cho thái tử.
Sau khi nhìn mặt thái tử, A Tư Đà nói với vua Tịnh Phạn rằng: “Đại vương! Vị thái tử hiền minh này tương lai nhất định sẽ xuất gia học đạo, và thành tựu quả Phật.
Thật đáng tiếc cho tôi đã già quá rồi, không kịp đợi ngài ấy thành Phật. Tuy không thể lãnh thọ giáo lý của ngài, nhưng tôi sẽ dạy đệ tử tôi theo ngài học đạo”.
Nói xong, A Tư Đà rơi nước mắt rồi lui ra. Và quả thật, sự việc sau đó đã diễn ra đúng như lời tiên đoán của A Từ Đà.
Từ khi được cha gửi tới núi Tần Đà, Ca Chiên Diên rất được người bác và cũng là
người thầy của mình là A Tư Đà yêu mến.
A Tư Đà đem hết sở học của mình truyền dạy cho đứa cháu thông minh. Ca Chiên Diên cũng không phụ lòng của người bác, chẳng bao lâu sau đã thông đạt cả tứ thiền, ngũ thần thông.
Một hôm, A Tư Đà gọi Ca Chiên Diên đến nói rằng: “Ca chiên diên! Như chí nguyện của con bây giờ, mai sau con sẽ là một nhân vật vĩ đại, nhưng con phải gặp minh sư mới được.
Chỗ hiểu biết của ta, hiện tại không còn đủ cho con cầu học. Đức đại thánh Phật đà đã xuất thế, con hãy đợi sau khi ngài thành đạo, mau mau theo học với ngài”.
Ca Chiên Diên nghe lời thày dạy nhưng vẫn bán tín bán nghi về đức đại thánh Phật đà. Duy có một điều Ca Chiên Diên tin rằng thầy mình nói đúng, đó là sau này mình sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại.
Để chuẩn bị cho người cháu của mình, ngày nọ, A Tư Đà dẫn Ca Chiên Diên xuống núi, đến vườn Lộc Dã của nước Ba La Nại và lập một ngôi tịnh thất ở đây.
Sau khi tịnh thất hoàn thành, A Tư Đà nói Ca Chiên Diên mỗi ngày cầu đảo ba lần, cầu cho đức Đại giác Phật đà manh đến ngày chứng quả.
A Tư Đà lại nói với Ca Chiên Diên rằng: “Ca Chiên Diên! Theo ta tính quẻ dự đoán, đức Phật chẳng bao lâu sẽ thành đạo.
Sau đó nhất định sẽ đến Lộc Dã Uyển mà quay bánh xe pháp trước nhất. Ta chỉ biết được như thế, còn đức Phật giác ngộ chân lý gì, e rằng ta không có phúc để biết điều ấy.
Con nên nhớ kỹ điều này, đức Phật thành đạo rồi, con phải mau mau đi tìm ngài cầu đạo và tu học nhé!” Ít lâu sau, A Tư Đà qua đời. Ca Chiên Diên tự do phát huy học vấn và tài năng của mình.
Cha là quốc sư, bác ruột là tiên A Tư Đà, mặc dù không muốn dựa vào điều đó nhưng Ca Chiên Diên cũng không thể phủ nhận là chính vì điều ấy mà dân chúng nể trọng mình hơn.
Đáng tiếc, Ca Chiên Diên bắt đầu bị chìm đắm trong danh lợi và quên mất lời dặn dò trước khi mất của bác mình đó là tìm Đức Phật để cầu học.
Bài kệ thần bí
Một thời gian sau đó, tại miền đất hoang gần thành Ba La Nại, người ta đào được nhiều di vật của một cổ thành từ mấy ngàn năm trước. Trong đó có một tấm bia có khắc một lối chữ mà chẳng ai biết là chữ gì.
Người ta đồn rằng, ai có thể đọc được nội dung bài kệ trên tấm bia đó thì chắc chắn đó là một bậc đại giác. Thế nhưng, trong suốt một thời gian dài mà vẫn chưa ai có thể đọc được nội dung bài kệ đó.
Một hôm, quốc vương Ba La Nại nói với quần thần rằng, nội trong vòng 7 hôm, phải tìm cho bằng được người có thể đọc được nội dung bài kệ trên tấm bia đá cổ kia nếu không sẽ cách chức toàn bộ.
Ông vua này cho rằng, nếu không đọc được bài kệ thần bí kia, người các nước khác sẽ chê cười nước Ba La Nại mình là những kẻ không có học.
Mệnh lệnh của nhà vua đưa ra khiến ai cũng run sợ, tuy nhiên, các quan đại thần chưa từng thấy những thứ chữ này nên chỉ còn cách lấm lét nhìn nhau không dám ngẩng đầu lên.
Cuối cùng, các quan dâng kiến nghị lên nhà vua, xin treo bảng thông báo cho toàn quốc, ai đọc được bài kệ trên bia cũ sẽ được trọng thưởng mỹ nữ và tài vật châu báu.
Thông báo của nhà vua nhanh chóng tới tai Ca Chiên Diên.
Trước đây, A Từ Đà từng dạy cho Ca Chiên Diên tất cả những thứ chữ ở mọi quốc gia vì thế, Ca Chiên Diên rất tự tin gỡ thông báo tới gặp quốc vua để đọc bài kệ.
Và quả thực, Ca Chiên Diên đọc được toàn bộ nội dung của bài kệ. Tuy nhiên, Ca Chiên Diên chỉ đọc được bài kệ chứ không thể giải thích được nội dung bài kệ nhằm nói điều gì.
Quốc vương Ba La Nại công nhận học vấn của Ca Chiên Diên, tuy nhiên, giờ đây giải đáp nội dung bài kệ lại trở thành một câu hỏi lớn.
Nhà vua một lần nữa lại quyết định treo giải thưởng để những học giả trong thiên hạ tới khai thông vấn đề.
Ca Chiên Diên đương nhiên không chịu thua. Ông hứa với đức vua, trong vòng 7 ngày nhất định mình sẽ tìm hiểu thấu đáo nội dung bài kệ. Tuy nhiên, sau khi đã tra cứu tất cả các kinh sách, lục lọi trí nhớ của mình, Ca Chiên Diên vẫn không thể nào hiểu được ý chỉ của bài kệ cổ là gì. Đến khi không còn biện pháp nào nữa, Ca Chiên Diên buộc phải đi cầu người khác giúp mình.
Ba đầu, ông tới chỗ Phú Lan Na Ca Diếp, sau đó lại tìm đến từng người trong nhóm lục sư ngoại đạo. Tuy nhiên, không giải đáp của ai khiến Ca Chiên Diên cảm thấy thỏa mãn.
Cuối cùng, sau khi đã cùng đường, Ca Chiên Diên mới nghĩ tới đức Phật Thích Ca mà ngày xưa người bác A Tư Đà của mình đã dặn mình tới cầu học.
Ban đầu Ca Chiên Diên ngần ngại không đi vì nghĩ rằng, bài kệ này, văn tự cõi trời, các lão Bà la môn trưởng thượng, uy quyền một cõi mà còn không biết thì một người tuổi còn trẻ như Tất Đạt Đa Cù Đàm làm sao mà biết được? Tuy nhiên, sau cùng, Ca Chiên Diên vẫn quyết định tới gặp đức Phật Thích Ca vì nghĩ rằng, học vấn không quyết định bởi tuổi tác.
Khi yết kiến đức Phật, Ca Chiên Diên mới biết những lời bác mình nói là không sai. Nghe Ca Chiên Diên đọc bài kệ một lượt, đức Phật đã giải đáp thông tỏ từng câu, từng chữ của bài kệ cho Ca Chiên Diên nghe.
Ca Chiên Diên vốn là người thông minh, nghe đức Phật đọc một lượt đã có thể ghi nhớ. Ông đọc lại bài kệ đáp của đức Phật một lần rồi cung kính cúi lạy đức Phật để tỏ lòng biết ơn.
Sau đó, Ca Chiên Diên đem bài kệ đáp của Đức Phật về nói lại cho vua nước Ba La Nại nghe. Từ đó trở đi, Ca Chiên Diên tuyên bố với các tín đồ từ nay mình sẽ quy y đức Phật để làm đệ tử của một bậc đại Thánh.
Câu chuyện hùng biện ly kỳ của tôn giả Ca Chiên Diên
Được tôn xưng là đệ tử có tài năng hùng biện giỏi nhất trong số các đệ tử của Phật Thích Ca, cho tới tận ngày nay, những tín đồ cửa Phật vẫn truyền tụng cho nhau nghe về những cuộc tranh luận ly kỳ của tôn giả Ca Chiên Diên trong công cuộc hoằng hóa Phật pháp của ông trên khắp mọi miền Ấn Độ…
Tranh luận về sự bình đẳng với quốc vương Mathura
Kể từ ngày tin theo Đức Phật, Ca Chiên Diên có khi tu học trong tăng đoàn của Phật, có khi 1 mình đi ngao du giáo hóa các nơi.
Phương pháp giáo hóa của Ca Chiên Diên không giống với cách giáo hóa của tôn giả Phú Lâu Na, 1 người cũng rất có tài ăn nói, được tôn xưng là người đệ tử thuyết pháp giỏi nhất của Đức Phật.
Khi Phú Lâu Na thuyết pháp, ông thường là tập hợp hàng ngàn tín đồ đến nghe, còn tôn giả Ca Chiên Diên thì ngược lại. Ông thích thuyết pháp riêng cho từng người.
Chuyện kể rằng, 1 hôm Ca Chiên Diên 1 mình 1 bát băng rừng vượt núi tới đất nước Mathura xa xôi ở tận vùng phía Tây để giáo hóa.
Khi đến Mathura, Ca Chiên Diên không vội vào thành mà đi khắp nơi xem xét dân tình, phong tục địa phương, lề lối sinh hoạt tập quán của nước này xong xuôi mới vào thành bái kiến Quốc vương.
Quốc vương Mathura thấy Ca Chiên Diên bèn hỏi: “Tôn giả! Tôi nghe nói ngài vốn dòng dõi Brahman (Bà la môn), đó là 1 chủng tộc cao quý nhất, còn Phật Đà là dòng Kshastriya (Sát đế lợi), mà nay ngài lại tin theo ông ta, làm đệ tử ông ta, thiệt là chẳng ép uổng lắm sao?”
Ca Chiên Diên nghe thấy Quốc vương nói vậy thì vẫn bình tĩnh và đáp: “Thưa Đại vương! Chuyện đó chẳng những không ép uổng gì hết, mà trái lại, tôi cảm thấy rất hân hạnh được làm đệ tử bậc đại thánh Phật Đà”.
“Lạ thật! Từ bỏ dòng dõi thanh tịnh cao quý để làm đệ tử 1 người dòng Sát đế lợi, thật là chẳng ai hiểu nổi”.
Biết ông vua này thủ cựu, Ca Chiên Diên ôn tồn giải thích: “Thưa Đại vương! Ngày xưa tôi là Bà la môn tôi cũng nghĩ như Đại vương. Nhưng sau khi nghe Phật Đà giáo thị, tôi mới biết đó là nhận thức sai lầm.
Trong xã hội chia ra giai cấp Bà la môn, Sát đế lợi, Vệ xa, Thu đà la, còn trên nghề nghiệp thì chia thành tôn giáo, chính trị, thương nghiệp, nông công.
Điều ấy không sai, nhưng từ đó mà nói rằng có chủng tộc cao quý, có chủng tộc thấp hèn thì thật là chẳng đúng chút nào.
Người trong dòng dõi nào cũng có thiện có ác. Hiện tại trong chủng tộc Bà la môn nhiều người làm những điều ác, nếu như vẫn nói rằng họ cao quý thì chẳng phải là sai lắm sao?”
Trước những lời lẽ thuyết phục của Ca Chiên Diên, quốc vương nước Mathura chợt như tỉnh ngộ. Quốc vương vui vẻ nói với Ca Chiên Diên: “Thì ra là như vậy.
Ở đất nước này, nhà tù chỉ nhốt toàn chủng tộc Thu đà la, còn những người thuộc dòng Bà la môn phạm pháp thì không sao cả. Hèn gì, xã hội hỗn loạn, nhân dân ta kêu thán như vậy”. Nói xong, Quốc vương Mathura yêu cầu Tôn giả cho mình được quy y Phật pháp.
Đồng thời, nhà vua ra lệnh đại xá, thả hết những tù nhân dòng Thu đà la, chỉnh đốn lại chính trị, bỏ luôn luật pháp bất công, không phân biệt giai cấp, giữa người và người đều chịu 1 quốc pháp như nhau.
Từ đó toàn cả nước vui mừng, nhân dân lạc nghiệp. Ai nấy đều cảm kích sự giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên.
Tranh luận với những bậc trưởng thượng Bà la môn
Ca Chiên Diên theo đức Phật, tuyên bố chủ trương “Bình đẳng giữa 4 chủng tộc”. Điều ấy khiến những người thuộc dòng dõi Bà la môn vốn tự coi mình là cao quý nhất không chịu được.
Vì vậy, hễ gặp cơ hội họ liền tìm Ca Chiên Diên chất vấn, họ nghĩ rằng, không triệt hạ Ca Chiên Diên thì các Bà la môn từ nay không cất đầu lên nổi.
Tuy nhiên, nổi tiếng là người thông minh, tài trí và giỏi biện luận, Ca Chiên Diên khiến những người tìm tới chất vấn mình nhanh chóng phải khâm phục dù đó có là người quyền uy thế nào trong giới Bà la môn.
Chuyện kể rằng, 1 hôm, khi Ca Chiên Diên đang ở nước Ba la nại cùng với các tỳ kheo học thọ thực trong trai đường thì có 1 Bà la môn, thuộc hàng trưởng thượng tìm tới khiêu chiến.
Lão Bà la môn chống gậy bước vào, không nói không rằng đứng bên cạnh chỗ Ca Chiên Diên ngồi, ý ông ta tưởng rằng: Ông ta là bậc trưởng thượng, Ca Chiên Diên thấy ông ta đến thì phải sẽ đứng dậy nhường chỗ ngồi.
Tuy nhiên, ngoài ý dự đoán của lão, Ca Chiên Diên chẳng thèm nhìn đến ông, lão Bà la môn đợi hồi lâu bèn nổi giận, lớn tiếng trách: “Các ngươi là giống gì?
Đối với người già cả như ta tại sao không đứng dậy nhường ghế ngồi?” Các tỳ kheo có mặt tại trai đường sợ quá, nhiều người còn định đứng lên nhường chỗ cho lão Bà la môn ngồi.
Tuy nhiên, Ca Chiên Diên thì vẫn không nao núng chút nào. Ông quay mặt nói với lão Bà la môn nọ: “Ông là người nào mà đến đây lớn tiếng ầm ĩ? Chúng tô có phép cung kính của chúng tô, nhưng mà ở đây không có ai là trưởng thượng và tiền bối”.
Lão đạo sĩ Bà la môn nổi giận, quơ gậy chỉ vào cái đầu bạc của mình, nộ khí xung thiên la lên: “Già cả như lão đây không phải là trưởng thượng hả? Không đáng cho người cung kính hả?”
“Ông ấy à? Ông không đáng gọi là già lão, cũng không đáng nhận sự cung kính của chúng tôi!”, Ca Chiên Diên nói một cách mỉa mai.
“Tại sao ngươi khinh thường người khác quá vậy?”, lão Bà la môn nổi giận lôi đình, lấy gậy chỉ trỏ Ca Chiên Diên. Đối lại, Ca Chiên Diên rất điềm tĩnh, từ tốn nói: “Tôi thấy cử chỉ và lời nói của ông thô lỗ như thế, tôi mới nói ông không đáng gọi là người lớn, không đáng cho người ta kính trọng.
Đừng kể là Bà la môn, dẫu cho 80, 90 tuổi, tóc bạc răng rụng mà không chân chính tu đạo, đắm chìm trong trần sắc, không bỏ được phiền não, tham sân tật đố, người đó chỉ đáng gọi là thiếu niên.
Như các người tuổi trẻ 20 quanh đây, da dẻ còn tươi nhuận, đầu tóc đen nhánh, nhưng họ đã thoát khỏi sự trói buộc của ái dục, không còn tham cầu nơi thế gian, không có chút xíu ý niệm bất bình sân hận.
Được như vậy, chúng ta mới gọi người đó là bậc trưởng thượng, là bậc lão túc, đáng được tất cả chúng ta cung kính”. Lão Bà la môn nghe nói xong, chẳng biết trả lời lại thế nào, làm thinh đi ra.
Khuất phục 1 Bà la môn râu bạc, danh tiếng Ca Chiên Diên càng lớn, nhưng cũng từ đó, Ca Chiên Diên càng không có ngày nào được yên, bởi các giáo đồ Bà la môn càng không thể tha thứ cho ông.
1 hôm, lại có 1 Bà la môn khác, rất giỏi biện luận, nghe nói Ca Chiên Diên đối với Bà la môn lão niên của họ chẳng những không cung kính mà còn bắt bẻ lại, ông Bà la môn này rất tức giận, từ xứ Câu thi ni la ở phía Bắc xa xôi hỏi thăm tìm đến chỗ của Ca Chiên Diên tại thành Ba la nại để khiêu chiến.
Vừa tới nơi ông ta đã kêu đích danh Ca Chiên Diên mà hỏi: “Ca Chiên Diên! Tôi nghe người ta nói, Ca Chiên Diên là gốc Bà la môn, nay cải giáo làm sa môn (hòa thượng), có phải vậy chăng?” “Đúng vậy, ông xem tôi đang đắp ca sa đây”, Ca Chiên Diên bình tĩnh đáp lời.
“Người phản bội tín ngưỡng của mình, lỗi nhiều ít?”, ông lão Bà la môn nọ chất vấn.
“Từ bỏ tín ngưỡng tà chấp kia đi theo đạo lý quang minh chính tín này, không có lỗi gì cả!”, Ca Chiên Diên trả lời rất đanh thép.
“Trong giới Bà la môn ông chẳng phải là hạng người vô danh tiểu tốt, ông đã từng nghiên cứu tinh thâm pháp điển của Bà la môn chúng ta, nay ông cải giáo theo Phật, chuyện đó chưa thể bỏ qua, mà ta còn nghe đồn ông hay giảng thuyết Phật pháp cho các Bà la môn để rủ rê họ theo mình, hành động ấy thật là vô lễ”, ông lão Bà la môn vẫn không thôi cật vấn.
“Người đã đi qua, chỉ lại cho bạn đồng hành những chỗ lầm lạc của đoạn đường cũ, đó là lời dạy từ bi của đức Phật”, Ca Chiên Diên điềm tĩnh đáp.
Được coi là 1 người giỏi ăn nói, thế nhưng gặp phải Ca Chiên Diên, ông Bà la môn này cũng chẳng làm gì được. Tuy nhiên, ông ta chưa chịu thua, nhớ đến mục đích của mình đến đây, bèn hỏi lại: “Ca Chiên Diên! Tôi lại hỏi ông điều này.
Nghe nói Ca Chiên Diên làm tỳ kheo đã không cung kính bậc trưởng thượng của Bà la môn, không đứng dậy tiếp đón cũng không mời ngồi. Nếu quả như vậy, nếu ông tự cho là các tỳ kheo, không phải người theo Bà la môn cũng không được vô lễ như vậy”.
Ca Chiên Diên thẳng thắn, chậm rãi đáp: “Ca Chiên Diên tôi từ khi quy y với Đức Phật, quả thật không cung kính phụng sự các lão túc Bà la môn, điều đó cũng hợp lý thôi, vì tôi đã chứng thánh quả. Ông đừng đem tuổi tác già trẻ mà đến đây chất vấn, lễ và pháp không thể lộn xộn được”.
Lão Bà la môn nọ nghe lời biện luận khéo léo của Ca Chiên Diên, rốt cuộc thấy đuối lý không nói thêm được lời nào nữa.
Về sau chính ông lão Bà la môn này đã quyết định từ bỏ những tín niệm Bà la
môn, yêu cầu tôn giả giới thiệu mình để làm đệ tử nơi cửa Phật. Chỉ riêng điều
ấy cũng đủ thấy khả năng thuyết phục của Ca Chiên Diên lớn đến thế nào.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự