Đức Phật dạy cần nhìn thật kỹ, thật sâu sắc để thấy thân tâm này là duyên sinh, giả có, vô chủ, để rồi buông bớt chấp thủ về tự ngã. Buông được bao nhiêu thì an vui bấy nhiêu. Ai buông hết là giác ngộ, giải thoát.
“Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
- Những pháp không thích ứng của các ông, thì hãy nên lìa bỏ hết. Nếu buông bỏ những pháp này rồi, các ông sẽ được an vui lâu dài.
- Tỳ-kheo, những pháp nào không thích ứng của các ông, mà các ông phải nhanh chóng lìa bỏ? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không phải là pháp thích ứng của các ông, hãy lìa bỏ hết. Nếu dứt sạch pháp này rồi các ông sẽ được an vui lâu dài.
- Giống như cây cối trong rừng Kỳ-hoàn; có người đến chặt cành lá rồi đem đi, các ông cũng chẳng lấy làm lo buồn. Vì sao? Vì những cây này chẳng phải ta, chẳng phải sở hữu của ta. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, những gì không là thích ứng của các ông, hãy lìa bỏ tất cả. Nếu xa lìa hết rồi, các ông sẽ được an vui lâu dài. Những gì không phải thích ứng của các ông? Sắc không phải là thích ứng của các ông, phải lìa bỏ hết. Nếu xa lìa rồi thì sẽ được an vui lâu dài. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức không phải thích ứng của các ông, hãy nhanh chóng lìa bỏ. Nếu buông bỏ các pháp này rồi, sẽ được an vui lâu dài.
- Tỳ-kheo, sắc là thường hay vô thường?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Thế Tôn, là vô thường.
Phật dạy:
- Tỳ-kheo, vậy vô thường là khổ phải không?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thế Tôn, là khổ.
Phật bảo:
- Nếu vô thường là khổ, là pháp biến dịch, vậy đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy có ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thế Tôn, không.
- Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay là vô thường?
Đáp:
- Thế Tôn, là vô thường.
Phật bảo:
- Vô thường là khổ chăng?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thế Tôn, là khổ.
Phật bảo:
- Nếu vô thường là khổ, là pháp biến dịch, vậy đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy có ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?
Các Tỳ-kheo đáp:
- Thế Tôn, không.
- Tỳ-kheo, cho nên, những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng khác ngã, chẳng ở trong nhau. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức… chẳng ở trong nhau. Thánh đệ tử phải quán sát năm thọ ấm này chẳng phải ngã, chẳng phải sở hữu của ngã. Lúc quán sát như vậy, đối với thế gian không có gì để chấp thủ. Vì không có gì để chấp thủ nên tự đạt Niết-bàn: ‘Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sinh đời sau nữa’.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành”.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 269)
Khi đã thấy rõ như thật vô thường-khổ-vô ngã của năm uẩn, tuệ giác “không phải tôi, không phải của tôi, không phải tự ngã của tôi” mới có mặt. Không tuệ thì không thể buông, ít tuệ thì buông ít, nhiều tuệ thì buông nhiều, toàn tuệ thì buông hết, buông hết mới được giải thoát an vui.
Đức Phật dạy: Ngũ uẩn giai không. Hãy bắt đầu thiền quán, minh sát về vô thường của sắc (thân) cho đến thọ, tưởng, hành, thức (tâm). Chúng đổi thay, biến dịch, sinh diệt trong từng sát-na. Thấy rõ tính duyên sinh, giả hợp của mỗi uẩn và cả năm uẩn là tuệ giác lớn.
Cội nguồn của khổ là do vô minh, vì vô minh mà chấp thủ và tham ái. Phát huy tuệ giác để xả buông chấp thủ tự ngã chính là con đường đi đến an vui lâu dài mà Đức Phật đã đi qua và chúng ta phải thành tựu.