Sư
liên kết với Tăng Viễn, Tăng Hữu ở chùa Định Lâm, cùng với Hoằng Tông ở chùa
Thiên An, theo hai sư Tăng Nhu và Tuệ Thứ cầu học, tinh thông kinh luận và giới
luật. Thái tể Văn Tuyên Vương thiệu long Phật giáo, đem giảng Tịnh Danh kinh,
triệu tập tăng chúng tinh thông kinh luận có hơn 20 người. Sư tuổi còn nhỏ,
phải ngồi ở cuối cùng, nhưng đến phiên giảng, sư phô bày nghĩa lý, không một ai
theo kịp. Bấy giời Lương Vũ Đế lãnh thọ sùng tín, sắc sư trụ trì chùa Khai
Thiện.
Năm
29 tuổi, nghe thầy tướng số nói sư chỉ sống đến 31 tuổi, bèn thôi giảng giải,
chuyên tâm tu đạo, phát đại thệ nguyện không ra khỏi cửa chùa. Từ đó, ngày đêm
sư trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã. Đến năm 31 tuổi, sư lấy nước thơm tắm gội
thân thể, lên điện tụng kinh chờ chết. Bỗng nghe trong không trung có tiếng nói
rằng: “Bởi thần lực của kinh Bát Nhã, khiến cho tuổi thọ của ngài tăng gấp đôi”.
Từ
đó, vùng Giang tả, đạo tục đua nhau tụng kinh Bát Nhã, tất cả đều có cảm ứng vi
diệu. Vũ Đế từng nghĩ cho bạch y làm Tăng chính, theo giới luật mà lập pháp,
chỉnh trị Tăng kỷ, không người nào dám kháng chỉ. Sư bèn thượng thư can gián:
Phật pháp như biển lớn, người thế tục làm sao có khả năng đảm đương và biết hết
được? Rồi cùng vấn đáp với Hoàng đế. Đế bội phục nghĩa lý, việc ấy mới dừng.
Về
sau, sư phụng sắc giảng Thành Thật luận ở chùa Bành Thành, giảng kinh Bát Nhã ở
Tuệ Luân Điện. Cuối đời, sư trụ ở chùa Khai Thiện. Lúc Võ Đế thọ giới Bồ tát,
thỉnh sư làm giới sư. Hoàng thái tử cũng rất kính trọng sư, từng thân lâm đến
pháp tịch, nghe sư giảng kinh Đại Niết Bàn. Tháng 9, niên hiệu Phổ Thông thứ 3,
sư thị tịch, thế thọ 65.
Lời bình:
Tuổi
thọ dài ngắn tuy là vận mệnh của mỗi người, nhưng lễ Phật sám hối, tụng kinh có
thể kéo thêm tuổi thọ, như thế sống chết do số mệnh đời trước có thể thay đổi.
Thí như vào triều nhà Đường, ông Tấn Quốc Công Bùi Độ, mới đầu thầy bói tướng
nói ông ta đã hết mạng, sẽ chết đói. Một hôm ông đi chơi ở chùa Hương Sơn, gặp
một thiếu nữ cha bị phán tội oan; cô này đi xin mọi người cho mượn ba viên
ngọc, một sừng tê giác, để hối lộ quan lớn cứu cha. Lúc cô ta đến trước tượng
Phật lễ bái, để các vật đó ở ngoài hiên, rồi quên mất và bỏ đi. Bùi Độ tìm kiếm
cô ta để trả lại, cuối cùng ông ta cứu được một mạng người.
Sau
đó gặp lại vị thầy bói tướng, ông ta nói: “Số mạng của ngài đã thay đổi, nhất
định ngài đã làm một việc gì đó tích âm đức, cho nên đoản mạng đã tiêu mất,
ngược lại tương lai còn muôn dặm”. Lại giống như vào triều nhà Tống, có ông
Tống Tường (tức Tống Giao), người Ung Khâu, cùng với em là Tống Kỳ, đồng đỗ
tiến sĩ, người đời gọi là Đại Tống, Tiểu Tống. Một hôm, một vị Hồ Tăng hỏi Đại
Tống rằng: “Thần phong của ngài tôn quý đốn dị, như có thể cứu sống hàng vạn
mạng người, rốt cuộc vì nguyên nhân nào đột nhiên hiện tướng mạo tôn quý này”?
Tống Tường suy nghĩ một lát rồi nói: “A, dưới mái hiên nhà tôi có một hang kiến
càng, vì gió lớn mưa to ngập hết, tôi chơi trò bắc cầu tre cho kiến bò qua khiến
chúng khỏi chết ngộp”! Hồ Tăng nói: “Thì ra là do công đức này”.
Xem
hai chuyện trên đây, sức người đời có thể hoán đổi được thiên mệnh huống chi
sức mạnh công đức bất khả tư nghì của Tam Bảo? Chỉ sợ rằng không thành kính lễ
Phật sám hối giống như hai vị pháp sư Pháp Sủng và Trí Tạng mà thôi! Nếu như
là, lúc tụng kinh thì tụng vài tiếng giống như thổi cái loa nhỏ, ỏn à ỏn ẻn,
không chú trọng vào lời kinh để tu quán hoặc do nơi văn kinh mà vào lý; còn lúc
lễ sám thì chỉ giống như người giã gạo, trước sau đụng đầu vài cái, căn bản là
không có một chút xấu hỗ, tàm quý và tâm chí thành sám hối. Tụng kinh sám hối
như vậy lại trách vì sao Phật, Bồ tát không có linh ứng!.
Tác giả bài viết: Thích Nguyên Hùng dịch
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự