Ở TPHCM
cũng có những chuyện sư giả như vậy. Họ đem theo cả tập bản vẽ thiết kế chi
tiết của một ngôi chùa để vận động tiền. Người bị lừa, khi phát hiện mình là
nạn nhân, thường hiếm khi dám nói, vì sợ bị cười.
Nạn sư giả đi khất thực ở TPHCM, nhìn chung, đã bị dẹp. Đó là nhờ tiếng nói của
báo chí, sự hỗ trợ của chính quyền và quyết tâm của lãnh đạo giáo hội. Không
còn thấy cảnh nhà sư mang bình bát đi xin tiền ở các khách sạn quốc tế, trên
đường phố, bến xe…
Bây giờ cũng ít người cho tiền theo kiểu như vậy, vì ai cũng biết qua báo chí.
Tuy nhiên kết quả không phải 100%, vì thỉnh thoảng vẫn thấy sư giả khất thực
xin tiền tái xuất hiện.
Sự đóng góp của báo chí là một kinh nghiệm quý. Không ai còn bị lừa khi đã được
cảnh báo như vậy.
Tiếp đến là không có ít vụ lừa đảo nổi cộm (nếu chỉ lượm bạc cắc, tiền đâu mua
biệt thự như bài báo đã dẫn nêu). Nếu nhà nước xử điểm thật nghiêm vài vụ, phổ
biến rộng rãi trên báo chí, thì cũng giảm bớt phần nào tệ nạn này.
Còn về phía nội bộ Phật giáo, nếu người theo đạo không dễ dãi, cả tin, mê tín (nhờ
xem bói, cúng giải hạn…) thì đâu đến nỗi phát sinh cả tập đoàn lừa công khai
như thế. Có người nuôi nên họ mới sống khỏe. Nếu nguồn nuôi không còn thì con
ký sinh trùng sớm muộn gì cũng phải chết.
Câu hỏi “vì sao các tôn giáo khác không bị lợi dụng theo hình thức này?” nêu ở
mục phản hồi bài viết đã dẫn cũng dễ trả lời.
Đạo Phật có truyền thống khất thực. Sự “diễn biến” của nó sang dạng xin tiền là
điều không tránh khỏi. Đây là nguyên nhân chính của nạn sư giả ở TPHCM nhiều
năm trước đây, đến nỗi sư thật không thể đi khất thực được nữa (các vị sư
Tệ nạn mê tín trong đạo Phật còn nặng. Nguyên nhân chính nằm ở chỗ mê tín này.
Như đã nói ở trên, hết mê tín là hết sư giả, với áo giả và thẻ giả.
Nhưng các tôn giáo khác, không chỉ riêng ở đạo Phật, cũng đều chịu tệ nạn nhà
tu giả.
Ở đây, không phải là tấm thẻ giả tự in đóng bằng dấu “củ khoai”, hay chiếc áo
tu sĩ, mà họ có giấy chứng nhận thật, có bằng cấp đào tạo thật, kiến thức tôn
giáo, tuổi đạo cũng là kiến thức thật, tuổi đạo thật. Có điều họ không tu, mà
chỉ coi việc đi tu như là một cái nghề kiếm sống.
Trường hơp này mới là nguy hiểm, vì khó nhận dạng. Họ không về nhà cởi áo nhà
tu ra để bị phát hiện như bài viết đã dẫn phanh phui. Họ ở ngay trong các cơ sở
tôn giáo (chùa, nhà thờ, đền thờ…). Có thể là không bao giờ vị thầy tu giả đó
bị phát hiện, nếu không xảy ra scandal.
Chúng ta đã từng thấy báo chí phanh phui những vị “chủ chăn” ở các nước Âu Mỹ
lạm dụng tình dục, còn tệ hại hơn việc làm tiền. Tệ nạn thầy tu giả tôn giáo
nào cũng có!
Các tổ chức tôn giáo nước ngoài không bao giờ muốn xảy ra scandal, nên có phát
hiện, thì bề trên không phải hiếm khi làm thinh cho qua để giữ thể diện chung.
Người tu giả cũng cố hết sức giữ kín mặt trái, nên cũng hiếm khi xảy ra “sự
cố”.
Tín đồ một số nước phương Tây thưa thớt dần việc đến các cơ sở thờ tự cũng vì
lý do này. Họ còn không tin tưởng ở các nhà tu hành dù là bề ngoài tưởng chừng
như không có việc gì xảy ra cả.
Chúng tôi nghĩ rằng, đối với đạo Phật, “sư giả” kiểu này còn nguy hiểm hơn gấp
vạn lần sư giả khất thực, bán nhang, hay bói toán, xem tử vi, giải hạn.
Có khi họ là sư thật, tu thật, nhưng đến một lúc nào đó không chế ngự nổi những
cám dỗ, không giữ gìn nỗi bản thân, hóa ra làm sư giả. Họ chỉ còn lại cái vỏ
bên ngoài, bằng cấp và giấy chứng nhận.
Kiểu giả như vậy làm sao xử lý? Các tôn giáo khác còn phải chịu, chỉ chờ tới
khi xảy ra việc tai tiếng.
Còn như Phật giáo (trước đây khi chưa thống nhất), thì có tình trạng giáo hội
đã có ý kiến xử lý, nhưng rồi cũng không đi đến đâu, không có tác dụng gì.
Cách tín đồ không tới nơi thờ phượng nữa như ở các nuớc phương Tây nữa cũng là
một cách xử lý giữa những người trong một tôn giáo với nhau. Có thể nói, họ “xử
lý” cả giáo hội.
Tuy nhiên, đối với Phật giáo vấn đề không phải là bế tắc. Khái niệm sư giả đã
có từ thời đức Phật, mà lúc đó, cụm từ thường dùng là “tỳ kheo phạm giới”. Đã
phạm giới thì vị sư thật hóa thành sư giả.
Thẩm quyền xử lý dành cho cả 2 phía, tăng đoàn và cư sĩ.
Phía cư sĩ, Đức Phật đã có lời dạy chỉ nên cúng dường bậc chân tu, giới hạnh.
Cúng dường bậc tu hành tinh tấn giới đức thì phước báu càng lớn.
Bên cạnh lời dạy đó, Đức Phật đã không lập một giáo hội với sở hữu tập trung.
Ngài đã dành cho người cư sĩ, người giữ nhiệm vụ hộ pháp, với trách nhiệm cúng
dường, một sự lựa chọn. Tất nhiên, việc kết luận vị tỳ kheo nào là giới đức,
tinh cần là ở sự thẩm định của người cư sĩ. Đức Phật chỉ nêu rõ ràng tiêu
chuẩn.
Và như vậy, trong đạo Phật sẽ không dẫn đến tình trạng “tẩy chay” cả giáo đoàn
nói chung như ở những tôn giáo khác, mà người cư sĩ có quyền và nghĩa vụ làm
theo lời Phật dạy, là chỉ tôn kính và cúng dường bậc có giới đức, phẩm hạnh.
Điều đó cũng có nghĩa là người cư sĩ có quyền và nghĩa vụ xử lý bằng cách tẩy
chay những tỳ kheo phá giới, không giữ tròn giới đức phẩm hạnh, tức sư giả.
Từ thời Đức Phật, mọi việc đã được xác định. Tăng sĩ giả hay thật không do
chiếc áo hay do tấm thẻ, thậm chí không do phẩm vị, bằng cấp, hạ lạp mà do ở
giới.
Theo lời Phật dạy, người Phật tử có quyền đặt ra vấn đề giới trước tiên, để làm
cơ sở lựa chọn và thực hiện việc cúng dường.
Nếu sư giả, thẻ thật không nhận được cúng dường, thì chắc chắn họ không làm sư
giả được lâu.
Do vậy, người Phật tử cư sĩ, giữ nhiệm vụ hộ pháp phải ý thức rõ về trách nhiệm
và quyền hạn của mình. Mê tín, chỉ tin tưởng vào việc giải hạn, bói toán, lớp
áo vỏ bên ngoài…thì chẳng những hao tổn của mình, mà còn gây thiệt hại cho đạo
pháp, vì góp phần hình thành dung dưỡng sư giả, ở nhiều hình thức, nhiều cấp
độ.
Trong
khi đó, đạo Phật, với tầm nhìn trí tuệ, có lẽ là tôn giáo duy nhất cho phép tín
đồ (tức hàng cư sĩ) có thể gián tiếp tác động đến hàng tu sĩ bằng việc lựa chọn
cúng dường cá nhân dựa trên tiêu chuẩn giới như Đức Phật đã dạy.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự