Các hương linh tiếp xúc với nhà ngoại cảm thì họ đã
được siêu thoát chưa? Khi đã siêu thoát thì các hương linh có về nơi thờ tự
không? Vãng sinh, siêu thoát hay không là do sự chuyển hóa nghiệp lực của hương
linh đó và một phần nhờ vào sự hồi hướng phước báo của người thân? (LỆ
THU, thuttl2@bidv.com.vn)
ĐÁP: Bạn Lệ Thu thân mến!
Theo quan điểm Phật giáo (Bắc tông), một người sau khi chết có thể lập tức tái
sanh (đối với người tạo nghiệp cực thiện hay cực ác) hoặc trải qua giai đoạn
trung gian từ 1 đến 49 ngày rồi tùy theo nghiệp mà tái sanh vào cảnh giới tương
ứng. Trừ những trường hợp đặc biệt chết do đột tử, bất đắc kỳ tử thường gọi là
chết oan, còn lại đa phần sau 49 ngày các hương linh đều theo nghiệp tái sanh.
Khi thần thức đã theo nghiệp tái sanh vào một cảnh giới tương ứng rồi, tất
nhiên phải chịu thọ báo (tốt hoặc xấu) ở trong cảnh giới ấy. Cho đến khi mãn
nghiệp ở cõi ấy, nếu không có duyên lành tu tập giải thoát, thì thần thức lại
theo nghiệp tái sanh vào một cõi khác. Cứ thế, chúng sanh luân hồi trong ba cõi
sáu đường không cùng tận.
Theo giáo lý Nhân quả-Nghiệp báo, những nỗ lực của người thân hướng về hương
linh như tạo phước, cầu nguyện v.v… chỉ trợ duyên, ảnh hưởng tốt đến hương linh
được phần nào thôi chứ không can thiệp sâu vào khuynh hướng tái sanh của họ. Vì
mỗi người đều phải ‘thừa tự’ nghiệp lực của chính mình. Để được giải thoát, tự
thân hương linh phải tỉnh thức và hướng thiện. Không ai có thể cứu vớt chúng ta
ngoại trừ những nỗ lực tu tập của chính chúng ta. Thế Tôn đã dạy: “Hãy tự mình thắp
đuốc lên mà đi. Hãy tự mình nương tựa hòn đảo chính mình”.
Do vậy, không nên nhờ các nhà ngoại cảm gọi hồn người thân đã mất. Giả sử gọi
được và gọi đúng người thân thì chúng ta cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì.
Vì giải thoát khổ đau phải do tự thân mỗi người thực hiện. Đó là chưa kể đến
các trường hợp gọi không được hoặc gọi không đúng thì càng làm cho vấn đề phức
tạp thêm.
Các “hương linh” tiếp xúc với nhà ngoại cảm hầu hết là những chúng
sanh trong loài ngạ quỷ (quỷ thần) và một số các thần thức chưa tìm được cảnh
giới thọ sanh. Điều này chúng ta cần hết sức lưu ý vì giáo lý đạo Phật không đề
cập đến cõi âm mà chỉ nói đến lục đạo (trời, a tu la, người, súc sanh, ngạ quỷ
và địa ngục) cùng thân trung ấm (thân trung gian sau khi chết mà chưa hội đủ
duyên để tái sanh).
Do đó, nếu các hương linh tiếp xúc với nhà ngoại cảm thì chắc
chắn họ chưa giải thoát, có thể họ đã tái sanh vào ngạ quỷ (loài đông nhất
trong lục đạo, sống gần gũi và có thể giao tiếp, thọ hưởng vật thực loài người
dâng cúng).
Đối với vấn đề các hương linh đã siêu thoát thì có về nơi thờ tự không? Ở đây,
chúng ta cần bàn thêm về ý nghĩa siêu thoát. Siêu là vượt lên, thoát là ra khỏi.
Vãng sanh về Tây phương Cực lạc (hay các cõi Phật khác) hoặc sanh lên các cõi
lành (thoát khỏi cảnh khổ ác đạo) chính là ý nghĩa siêu thoát.
Trong quan niệm
dân gian của đa phần người Việt (ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa), bàn thờ gia tiên
là nơi ngự tọa của ông bà cha mẹ sau khi quá vãng. Sự thật không phải như vậy.
Theo Phật giáo, con người sau khi chết theo nghiệp tái sanh trong lục đạo chứ
không ở trên bàn thờ. Người Phật tử lập bàn thờ để tưởng nhớ, tri ân và cầu
nguyện cho ông bà cha mẹ quá vãng chứ không phải là thiết lập nơi tọa ngự cho
chư vị.
Theo Phật giáo, sự vãng sanh hay siêu thoát cốt yếu do sự tỉnh thức và chuyển
hóa của hương linh. Không có các đấng siêu nhiên hay bất cứ thế lực nào có thể
làm giúp được. Đức Phật cũng chỉ là đạo sư, bậc thầy chỉ đường.
Đi đến đích hay
không là nhiệm vụ của chúng ta. Cũng vậy, siêu thoát hay không là do chính nỗ
lực giác ngộ của hương linh. Mặc dù những trợ duyên như tha lực của Phật và các
vị Bồ tát, sự hộ niệm của chư Tăng, sự thành tâm tạo phước của thân nhân… là vô
cùng cần thiết nhưng không phải là tác nhân chính cho việc thành tựu siêu
thoát.
Ví như các phạm nhân đang thụ án trong trại giam, chỉ khi nào tự thân họ
biết sám hối ăn năn và cải tạo tốt mới có thể mong ngày hưởng ân xá, khoan
hồng. Còn người thân dù yêu thương hay có điều kiện đến mấy quyết lo cho phạm
nhân mà tự thân phạm nhân ấy không tỉnh thức, cứ liên tục sai phạm thì khó cứu.
Do vậy, khi người thân mất đi, trách nhiệm của chúng ta là tận tâm dốc lòng cầu
nguyện và tạo phước để hồi hướng, mong họ siêu thoát. Còn siêu thoát hay không
là do sự tỉnh thức chuyển hóa nghiệp lực của chính họ, thân nhân chỉ trợ duyên
mà không thể can thiệp được. Cho nên, không cần gọi hồn, triệu hồn, cầu hồn hay
các phương pháp tương tự vì không mang đến lợi ích thiết thực cho hương linh và
chỉ tốn kém, gây lo lắng hoang mang thêm cho thân nhân.
Trong bối cảnh cầu cúng mang sắc thái thần quyền đang nở rộ hiện nay, người
Phật tử cần thiết lập chánh kiến trong việc thờ cúng để khỏi rơi vào tà kiến,
mê tín dị đoan.
Chúc bạn tinh tấn!
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự