Ý nghĩa và quan niệm về ma trong Phật giáo

Thứ bảy - 11/07/2015 07:34
Có ma hay không có ma? Ma là gì? Ma ở đâu? Ma có làm hại được ta hay không? Nếu phải trừ ma thì phải làm như thế nào?... Đó là những thắc mắc ít nhiều ám ảnh mỗi người trong chúng ta.
Thật thế, đấy chẳng qua vì có người chưa hề "gặp ma" bao giờ, nên tò mò cũng muốn biết xem ma ra thế nào, hoặc có người đã từng "thấy ma" nên vẫn còn bị ma ám ảnh và muốn biết xem cái thấy của mình, hay là cái con ma mà mình trông thấy có thật hay không.

Vậy ta hãy xem quan điểm của Phật giáo về ma như thế nào.

Định nghĩa về Ma trong kinh sách
Chữ Ma do chữ Phạn Mâra mà ra. Tiếng Tây tạng là bDud, người Nhật gọi là Ma hay Hajun, tiếng Hán là Mo hay Mó. Người Trung quốc thường gọi là Ma-la, có lẽ cũng do tiếng Phạn Mâra mà ra, thế nhưng vì ngôn ngữ Trung Quốc không có vần r nên chữ Mâra được âm thành Ma-la(?).

Kể dài dòng ra như thế để thấy rằng không phải chỉ có người Việt Nam ta mới "thấy" ma.

Kinh sách định nghĩa chữ Ma (Mâra) là "quỷ sứ cám dỗ", một thứ "quỷ tinh ranh" tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả.

Phổ diệu Kinh (Latitavistara), bộ kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết ma đã từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Đức Thích Ca Mâu Ni đạt được Giác ngộ.

Theo Phổ diệu kinh, ma từng dùng mọi xảo thuật ma quái để ngăn cản Phật Thích Ca Mâu Ni đạt được Giác Ngộ.

Theo Phổ diệu kinh, ma từng dùng mọi xảo thuật ma quái để ngăn cản Phật Thích Ca Mâu Ni đạt được Giác ngộ.

Trong đêm trước khi Ngài thành Phật, ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, và cả một đoàn ma quân kéo đến để ném đá như mưa vào Ngài.

Tên cầm đầu đòi Ngài phải nhường ngai lại cho hắn, vì hắn nhất định bảo rằng không có gì chứng thực Ngài đã đạt được Giác ngộ.

Đức Phật liền dùng tay phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng minh cho sự Giác Ngộ đích thật của Ngài. Cả đoàn ma liền biến mất như bị phù phép vậy.

Như vừa kể trên đây, nếu có ma quân thì cũng phải có tên cầm đầu tức là Ma Vương. Ma Vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra.

Ma Vương là Vua của các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là Tha hoá Tự tại Thiên (Paranirmitavasavartin), tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục Giới, một cảnh giới thấp nhất trong Tam Giới.

Ma Vương có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồtát. Ma Vương còn có tên là Ma vương Ba tuần, tức là tên của Tha hoá Tự tại Thiên Vương.

Vậy theo kinh sách, có bao nhiêu thứ ma tất cả? Thật ra thì ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được kinh sách phân loại thành bốn thứ gọi là Tứ ma.

Vì có vài khác biệt giữa Thừa Kinh điển (Sutrayana) và Thừa Kim Cương (Vajrayana) trong cách định nghĩa về bốn loại ma, do đó nếu đem cộng lại cả bốn thứ ma của cả hai thừa thì sẽ có đến tám thứ ma hay Bát ma.
Tứ Ma của Thừa Kinh điển là:

1. Ma cấu hợp (Skandhamara): Đó là thứ ma quái tượng trưng bởi ngũ uẩn làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là "con ma gánh chịu cái chết", kinh sách tiếng Hán gọi làẤm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.

2. Ma dục vọng (Klesamara): Bao gồm các dục vọng, sự ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành động tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là"con ma đưa đến cái chết", kinh sách gốc Hán gọi là Phiền não ma.

3. Ma thần chết (Mrtyumara): Đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức đấy là quy luật vô thường. Con ma này có tên là "con ma vô thường", kinh sách gốc Hán gọi là Tử ma.

4. Ma con trời (Devaputramara): Bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác của những vật thể bên ngoài và cả trong tâm thức, cản trở sự tu học. Đó là "con ma bấn loạn", kinh sách gốc Hán gọi là Tha hoá Tự tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Tha hóa Tự tại Thiên Vương.


Ma sự là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên đường chánh Pháp. Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần: Yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, ước mong tiện nghi sang trọng...

Tứ ma của Thừa Kim Cương là:

1. Ma xiềng xích (tiếng Tây Tạng thogs-bcas-kyi bdud): Con ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, bệnh tật và các chướng ngại bên ngoài.

Đây là con ma của sự bám víu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn tìm cách trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách gốc Hán gọi con ma xiềng xích là Phiền não ma.

2. Ma thả lỏng (tiếng Tây Tạng thogs-med-kyi bdud): Đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức và gây ra khổ đau cho ta. Kinh sách gốc Hán gọi con ma này là Tâm ma.

3. Ma khánh hỷ (tiếng Tây Tạng dga’-brod-kyi bdud): Đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những “kết quả” và “kinh nghiệm” thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm. Kinh sách gốc Hán gọi con ma này là Thiện-căn ma.

4. Ma kiêu căng (tiếng Tây Tạng snyems-byed-kyi bdud): Đó là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái “ta”, cái “tôi”, cái “ngã”. Kinh sách gốc Hán gọi con mà này là Tam-muội ma.

Ngoài ra người ta còn thấy kinh Hoa nghiêm sớ sao phân chia ma ra làm mười thứ gọi là Thập ma, trong số mười loại ma này thì nhiều thứ đã được liệt kê trên đây, tuy nhiên cũng xin kể ra đầy đủ như sau:

1. Uẩn ma

2. Phiền não ma

3. Nghiệp ma: Tức các nghiệp tiêu cực ngăn trở việc tu tập.

4. Tâm ma

5. Tử ma

6. Thiên ma

7. Thiện căn ma

8. Tam muội ma

9. Thiện trí thức ma: Tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Những kẻ như thế cũng bị xem là một loại ma.

10. Bồ-đề Pháp-trí ma: Là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không quán thấy được chính đạo.

Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng mạn phép kể ra thêm:

Ma cảnh: Khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành.

Ma chướng: Những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ.

Ma duyên: Còn gọi là ác duyên, tức là các cơ duyên xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.

Ma đàn: Là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tai nạn mà bố thí. Loại ma này nhan nhản chung quanh ta, rất dễ trông thấy, không cần đến “kính chiếu yêu”.

Chữ Ma đàn nghịch nghĩa với chữ Phật đàn, Phật đàn là bố thí mà không biết là mình đã bố thí, không biết mình bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.

Ma đạo: Đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma.

Ma lực: Sức mạnh tiêu cực, kích động và xui khiến phạm vào những hành vị xấu hay hung ác.

Ma ngoại: Là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp.

Ma Phạm (Mâra hay Brâma): Là Ma Vương ở cõi Phạm Vương, gọi tắt là Ma Phạm. Chữ Ma Vương đã được giải thích trên đây, đó là Thiên-hoá Tự-tại Vương, còn Ma Phạm hay Phạm Vương, Phạm Thiên Vương(Mahabrahma) là vị Chúa Tể của cõi Ta-bà.

Quyền lực của Ma Phạm hay Phạm Thiên Vương chiếm vị thế cao nhất trong tam giới gồm dục giới, sắc giới và cả vô sắc giới, tức cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển gốc Hán gọi “Ngài” là Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Ma thiền: Phép thiền định tà mị, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo.

Ma thuật: Nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học.

Ma sự: Ý nghĩa của chữ này khá bao quát và rắc rối, nói chung thì đấy là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên đường chánh Pháp.

Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần: Yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng.

Ma sự cũng là những thứ cám dỗ kích động người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục. Ma sự còn có thể dùng để chỉ người ngồi thiền u mê và ngủ gục, hoặc trụ vào những cảnh hiện ra khi thiền, hoặc cảm thấy bấn loạn trong tâm thức, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền...

Ma sự cũng dùng để ám chỉ những người đã xuất gia tu hành nhưng còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, hoặc xu nịnh bọn cư sĩ và bá tánh lui tới chùa có nhiều của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ…

(còn tiếp)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây