Đoái trông muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
Quê nhà xa lắc xa lơ đó,
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay.
Cái
“quê nhà xa lắc xa lơ đó” sở dĩ còn quyến rũ khách lữ thứ tha phương, với những
lời réo gọi luôn đồng vọng mênh mông trong tâm tưởng, vì dưới những đám mênh
mông mây trắng ấy là hình ảnh thân thương của cha già, mẹ yếu. Ngày đi học,
nghe thầy giảng về sự tích mây Tần hay mây Hàng trong Truyện Kiều, có ai trong
thế hệ chúng tôi lại không rưng rưng cảm động? Ðịch Nhân Kiệt, người đời nhà
Ðường, được bổ làm quan ở Tĩnh Châu. Cha mẹ thì ở Hà Dương, cách Tĩnh Châu mấy
ngày đường. Một hôm, lên núi Thái Hàng, nhìn đám mây trắng bay một mình, ông
bèn bảo kẻ tả hữu: "Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng đo". Ông đứng
nhìn ngậm ngùi giờ lâu, đợi đám mây bay khuất rồi mới chịu quay về.
Câu
chuyện chỉ đơn giản có thế, mà được người xưa trân trọng nâng lên một điển cố
văn học, đủ thấy tâm hồn của người xưa đôn hậu xiết bao. Tấc lòng hiếu thảo đó
của người con đi làm quan xa xứ đã bao trùm lên cả không gian biền biệt, khi cố
tìm thấy hình ảnh của cha mẹ ẩn hiện mơ hồ dưới đám mây bay. Thời buổi hiện
đại, sự liên lạc tiện lợi và nhanh chóng khiến không gian như thu hẹp lại,
nhưng lòng người như đã dần thêm xơ cứng, không mấy ai còn thấy lòng rung động
bởi những câu chuyện như trên nữa. Chữ Hiếu dường như đã dần trở thành một thứ
“xa xỉ phẩm” trong một xã hội mà mọi quan hệ đều bị cuốn vào cơn lốc của lợi
danh và lòng ích kỷ. Người ta quên mất rằng một xã hội mà chữ Hiếu được coi trọng
mới là một xã hội thật sự thanh bình, vì đạo Hiếu là nền tảng của đạo Nhân.
Người
xưa thường nói: “Mộc dục tịnh nhi phong bất đình, Tử dục dưỡng nhi thân bất tại”
(Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng, Con muốn nuôi dưỡng cha mẹ mà cha mẹ
không còn nữa) như để nhắc nhở con người đừng có bao giờ phân vân hay chần chờ
trong việc báo đáp ơn sâu. Lẽ ra tôi đã được ở bên má tôi để phụng dưỡng sớm
hôm, vậy mà cái tâm nguyện nhỏ bé ấy lại không sao thực hiện được. Điều đó còn
khiến cuộc đời trở nên đau buồn hơn muôn ngàn lần sự muôn trùng cách trở của
không gian.
Người
xưa thường nói đến bốn chữ “Định tỉnh thần hôn” (hỏi han, chăm sóc cha mẹ sớm
hôm) để nhắc nhở đạo làm con.
Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con.
Những
người dân quê chân chất ít học sao lại hiểu cái đạo lý “Định tỉnh thần hôn” dễ
dàng bằng những câu ca dao bình dị mà thiết tha đến thế? Trong thời buổi mà
phong hóa đã quá suy đồi như hiện nay, người ta vẫn cho rằng con cái còn nghĩ
đến cha mẹ đã là có hiếu, mà nuôi dưỡng được cha mẹ lúc tuổi già là chí hiếu!
Con cái khi thành đạt đều cảm thấy yên tâm, thậm chí còn hãnh diện cả với xã
hội, khi cứ chu cấp tiền bạc hoặc thuê mướn người nuôi cha mẹ lúc tuổi già. Mỗi
năm một đôi lần về thăm viếng là đã cảm thấy không còn áy náy với lòng.
Khi
ông Tử Du hỏi đức Khổng Tử về chữ Hiếu, Ngài đáp: “Kim chi hiếu giả, thị vị
năng dưỡng. Chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng. Bất kính hà dĩ biệt hồ?” (Ngày
nay bảo rằng nuôi dưỡng được cha mẹ là có hiếu; đến như giống chó, giống ngựa
cũng đều được nuôi dưỡng. Nuôi mà không kính thì lấy gì để phân biệt?). Mỗi khi
nhớ đến câu đó, tôi không khỏi luôn giật mình kính sợ thâm ý của người xưa. Tôi
muốn hiểu chữ kính đây nằm trong bốn chữ “Định tỉnh thần hôn” - Sớm thăm, tối
viếng mới đành dạ con.
Tôi
nhiều lần đứng một mình trước biển, và hiểu vì sao người ta lại ví lòng thương
yêu của người mẹ với biển cả bao la. Biển dung nạp được tất cả những thứ nhơ
bẩn trên cõi đời này, mà muôn đời biển vẫn trong xanh. Mẹ chịu được tất cả
những điều nghiệt ngã nhất trên đời này, mà lòng mẹ vẫn hân hoan, bao dung độ
lượng. Những đứa con thành đạt hay hư đốn đều được mẹ thương yêu như nhau với
cái tâm vô sai biệt. Cũng như tất cả chúng sinh đều bình đẳng trước Tam bảo,
tất cả những người con đều bình đẳng trước trái tim người mẹ. Đó có khác gì chư
Phật đem bi tâm để quán sát chúng sinh?
Thuở
còn bé, bao nhiêu lần tôi bị đòn roi của ba tôi do thói nghịch ngợm của trẻ
con, má tôi không can được nên chỉ đứng nhìn mà lặng lẽ khóc. Lớn lên, tôi mới
hiểu rằng những giọt nước mắt lặng lẽ của người mẹ còn khiến những đứa con
nghịch ngợm lo sợ hơn những trận đòn roi. Tôi thường nghe câu thơ “Ai còn
mẹ xin đừng làm mẹ khóc”. Câu thơ đơn sơ là thế, nhưng cảm động lòng người bao
xiết. Chỉ có những người con thực sự hiếu thảo mới có thể làm được những câu
thơ giản đơn mà đáng yêu đến vậy. Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc. Bây giờ thì
tôi không còn bị những trận đòn roi của ba tôi như ngày xưa nữa. Tôi không làm
má tôi khóc nữa, nhưng cuộc đời lại bắt tôi phải khóc!
Tôi
còn nhớ khi tôi lên 8 tuổi, má tôi dắt tôi lên chùa Hòa An để làm lễ quy y.
Hình ảnh của hai mẹ con quỳ trong Phật điện cùng hình ảnh vị sư trụ trì khả
kính đã in sâu vào tâm khảm tôi, giúp tôi đặt những bước chân chập chững trên
con đường mênh mông của Phật pháp về sau. Rồi cứ đến ngày rằm, tôi lại theo má
tôi lên chùa. Đến rằm tháng Bảy đọc kinh Vu Lan, tâm hồn trẻ thơ của tôi - vốn
luôn hoang mang kinh ngạc vì sao ta lại được may mắn bẩm thụ một hình hài giữa
cõi nhân gian - đã tìm được lời giải đáp. Câu chuyện Bồ tát Mục Kiền Liên vào
địa ngục để cứu mẹ có thể chỉ là hư cấu, nhưng tấm lòng hiếu thảo của Mục Kiền
Liên làm rung động cả chư Phật mười phương lại là điều rất bình dị và dễ hiểu.
Tôi yêu quý đạo Phật vì dù là đạo giải thoát, nhưng nó luôn dạy con người không
được quên đạo làm con. Rồi sau này, khi học Nhị thập tứ hiếu, tôi càng hổ thẹn
trước tấm gương của những người con hiếu thảo đó. Tôi càng hiểu rằng có làm gì
đi nữa cũng không sao đáp đền được tấm lòng của mẹ, của cha. Ngày ba tôi mất,
tôi đề câu đối lên mộ như một lời tự nhắc nhở mình suốt một đời: “Dĩ Hỗ nguy
nguy sơn vĩnh tại. Hiếu tâm cổn cổn thủy trường lưu”. (Cha mẹ như núi Dĩ, núi
Hỗ cao chót vót, ngàn năm vẫn còn mãi đó. Lòng hiếu của con cái dù có làm gì đi
nữa, thì cũng chỉ như dòng nước hờ hững chảy xuôi). Núi Hỗ, núi Dĩ dẫu không
cao, nhưng đạo làm con nhìn lên vẫn thấy cao xa vòi vọi.
Ngày
nay biết bao nhiêu người cho rằng con người sống trong sự đan xen chằng chịt
của quá nhiều mối quan hệ xã hội: Cha mẹ, đồng nghiệp, vợ chồng, con cái, bạn
bè… Mối quan hệ với cha mẹ, do đó, cũng chỉ là một trong những mối quan hệ đó
mà thôi. Những kẻ quan niệm như thế sẽ không bao giờ hiểu được rằng:
“Ví
có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi, suốt cả mọi nơi, trên rừng dưới
biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận,
cũng chưa báo được, công đức mẹ cha, kể trong muôn một”. (Kinh Ðại báo phụ mẫu trọng ân, không rõ người dịch).
Con
người, khi thành đạt, thường vênh vang tự mãn với đời về tài năng của mình, mà
quên mất câu “Phúc đức tại mẫu”. Tất cả những gì ta đang có hôm nay, dù bằng
tài trí và bằng sự nỗ lực cả đời, thực ra chỉ là sự kết tinh nhân duyên từ cha,
từ mẹ. Hãy nhìn một vườn cây đầy những loài cây quý xum xuê quả ngọt. Người ta
thường chỉ trầm trồ ca ngợi tài năng và công lao người làm vườn, mà quên mất rằng
tất cả những trái cây tươi tốt trong khu vườn ấy đều lấy chất dinh dưỡng từ
lòng đất. Lòng đất đó chính là “Phúc đức tại mẫu” và âm đức của tổ tiên. Chúng
ta thường vô tình để cuộc đời hạnh phúc riêng của ta che khuất mất hình ảnh cội
nguồn của mẹ, của cha. Và những lời nhắc nhở đến hình ảnh cội nguồn đó bỗng trở
thành những tiếng kêu thương lạc điệu.
Tôi
luôn tâm niệm sở dĩ tôi có được cuộc sống bình thường ngày hôm nay, tất cả đều
nhờ cha, nhờ mẹ. Đời tôi đã trải qua khá nhiều cay đắng với những tháng năm
trôi nổi ngược xuôi. Mỗi khi trên lưng tôi thấm hằn những vết roi đời tủi nhục,
thì tôi chỉ tìm thấy bình yên bên má tôi, trong tình thương và nụ cười hiền
lành bao dung của người. Đến khi đời tôi tạm ổn định, tôi muốn được gần gũi má
tôi để đáp đền phần nào ơn dưỡng dục thì lại không thể thực hiện được. Đó là
một trong những điều đau đớn nhất trong đời, mà mỗi khi nghĩ đến, tôi không sao
cầm được nước mắt. Tôi tự an ủi rằng mọi sự tụ tán trên đời đều do nhân duyên. Tôi
không có phúc phận được cận kề để chăm sóc má tôi, có lẽ vì tôi chưa hội tụ đủ chữ
Duyên.
Ngày
còn bé, cứ đến mùa Vu lan, tôi thường lên chùa để được cài một bông hồng lên
áo, để cảm thấy niềm hạnh phúc rằng mình đang còn mẹ. Năm nay, lại thêm một mùa
Vu lan nữa mà tôi không được gần với má tôi. Người vẫn còn đó ở nơi “quê nhà xa
lắc xa lơ”, nhưng sao đến mùa Vu lan năm nay, tôi lại có cảm giác nghẹn ngào
như đang cài lên áo mình một đóa hoa màu trắng.
Mùa Vu lan 2009
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự