Cho đến nay phần lớn người ta vẫn cho rằng đó là một bí ẩn, chưa có một bằng chứng khoa học nào có thể lý giải về những trường hợp đã từng xảy ra như vậy. Thông thường có một cách lý giải – đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên! Vậy kiếp luân hồi có thực là sự ngẫu nhiên và mang lại cho con người điều gì?
Kiếp luân hồi dễ nhận thấy ở người trẻ?
Câu chuyện về kiếp luân hồi đã không còn mới tại Việt Nam, cách đây vừa tròn 80 năm nước ta lần đầu tiên ghi nhận về trường hợp cậu bé Phạm Văn Non được đăng trên tờ “Cao Đài Tạp Chí” (Revue Caodaiste) xuất bản bằng tiếng Pháp, số ra tháng Giêng năm 1931 dưới ngòi bút ông Hiến Pháp. Câu truyện được thuật lại như sau: Trong một lần tình cờ cậu bé Non gặp một ông lão và buột miệng dự đoán ông ta chỉ sống thêm 10 ngày nữa rồi sẽ về miền cực lạc. Không chấp đứa trẻ ranh vì cho rằng nó đùa cợt, về nhà ông kể lại cho bố mẹ nó nghe và để dạy nó cách ứng xử.
Thế rồi đúng 10 ngày sau ông lão chết thật, cậu bé Non trở nên nổi tiếng khắp vùng, nhiều kẻ hiếu kỳ đổ xô đến nhà Non để dự báo cho mình chuyện sống chết, tuy nhiên có một điều đặc biệt là nó chỉ dự báo cho những người có bản chất tốt, còn đối với kẻ không lương thiện thì trả lời bằng giọng miễn cưỡng và vắn tắt.
Câu chuyện được chú ý bằng việc Non nói về tiền thân của mình (nghĩa là kiếp trước): “Trước kia, tôi đầu thai làm đàn bà, mẹ của một vị hương chức tên C ở Sông Tra (Đức Hòa). Hiện giờ, trước ngôi nhà cũ của tôi có một hàng cây. Tôi nhớ rõ có một cây đinh đóng lút vào thân cây cau, ngày nay vẫn còn. Trong ngày này, giờ này, người ta đang làm đám giỗ tôi. Rất tiếc là tôi không đến dự được!”. Lời tiết lộ lạ lùng và đột ngột ấy đã khêu gợi tính hiếu kỳ của một vài người, nên họ đích thân đến Sông Tra điều tra xem có đúng như vậy không.
Và họ hết sức ngạc nhiên khi mọi chi tiết đều chẳng sai chút nào. Đứa bé còn quả quyết rằng, cùng “đầu thai” với nó có một đứa con gái tên Tang, con của một cô đào hát ở gần đó. Nghe vậy người ta dẫn nó tới rạp hát, nó chỉ ngay đứa con gái ấy giữa một đám đông con gái khác đang ngồi xem hát. Người ta hỏi thăm ngày sinh, tháng đẻ của Tang thì cũng y như ngày sinh, tháng đẻ của Non. Và bài báo theo lời người ta thuật lại, càng lớn Non càng quên dần những việc về kiếp trước của mình. Phải chăng vì không muốn bị người ta làm phiền mà Non bảo thế?
Rồi đến năm 1932,
trên tờ “Đuốc Nhà Nam” đăng ngày 6/9 tại Sài Gòn có bài viết “Một hiện tượng ly
kỳ về Thần linh” về đứa trẻ 4 tuổi có tên Mọi. Điều kỳ lạ bởi nó thỉnh thoảng
nhìn nhận cha mẹ nó là một người nó không hề biết. Chuyện ly kỳ được bắt đầu
khi tự dưng cậu bé đến ngồi trước cửa một gia đình có cô con gái đã mất gần nhà
trước đó.
Chuyện buồn chưa nguôi nhưng đứa trẻ hàng ngày cứ đứng trước cửa nhà, dù có đuổi nó vẫn một mực kêu rằng: “Cha mẹ tôi đây, nhà tôi đây, cớ sao lại đuổi?”. Chiều đến, khi cha mẹ nó tới đưa về, nó nhất mực không chịu theo, ngọt nhạt thế nào cũng không được. Cực chẳng đã, cha mẹ nó đành tạm để nó ở lại rồi buồn bực ra về.
Kể từ đó, “vị khách nhí không mời” ở trong căn nhà lại biết rõ từng ngóc ngách, vị trí đồ đạc chỗ nào cũng quá quen thuộc, dường như đã ở lâu lắm rồi.
Chuyện không còn mới
Hai câu chuyện tái
sinh trên đều là trường hợp chết bất đắc kỳ tử, có điểm chung dễ thấy họ đều là
những người còn rất trẻ. Trở về với hiện tại, tôi có chút liên tưởng đến một
trường hợp “con lộn” tức là sự “tái sinh” được ghi nhận tại Hòa Bình. Cái tên
Nguyễn Phú Quyết Tiến, chắc hẳn nhiều bạn đọc còn nhớ, cách đây vài năm báo chí
đã tốn không ít giấy mực và tràn ngập thông tin trên mạng về cậu bé này.
Mặc dù
thực hư chuyện ra sao nó cũng chỉ được coi là một sự kiện lạ và trùng hợp, có
người tin và người không tin. Theo thời gian nó lại xóa nhòa như biết bao
trường hợp khác. Nhưng với tôi mọi chuyện đều không quan trọng, đằng sau là một
câu chuyện đầy cảm động.
Trước khi lên đường, tôi chủ động liên hệ với anh Tân bố cháu Quyết Tiến khá nhiều lần, tuy nhiên anh không nhấc máy. Bất đắc dĩ tôi đánh liều để lại dòng tin nhắn ngắn ngủi đợi chờ đến chiều tối thì anh gọi lại và bảo rằng: “Chuyện có gì đâu, các anh lại viết về con tôi để “câu khách” phải không?”.
Cuối cùng
tôi nhận lời hẹn xuống đến thị trấn Vụ Bản, tới sân vận động huyện anh sẽ ra
đón. Nhưng khi đặt chân đến nơi, tôi muốn tự tìm đến nhà anh để xem “tiếng tăm”
cậu bé này “nổi” đến cỡ nào.
Xóa bỏ mọi hoài nghi, quả thật trăm nghe… nhưng đúng bằng một thấy, không quá khó để hỏi thông tin của cậu bé nổi tiếng này vì bất cứ ai cũng có thể dẫn tôi đến tận nhà nếu cần. Tạt vào một quán nước toàn người dân tộc, bà chủ quán nói tiếng Kinh bằng giọng lơ lớ: “Nó qua đây vẫn trêu suốt à, nó đang trong nhà đấy!”. Nói xong bà ta chỉ tay hướng về ngôi nhà khang trang vừa được xây lại, nằm quay lưng lại dòng sông Bưởi.
Gặp anh trong không khí cởi mở, sau này anh giải thích chuyện “né” cánh báo chí rằng: “Cu cậu sang tuần là vào lớp 4, muốn để cháu tập trung cho việc học tập”. Cũng có nhiều nhà báo, nhà ngoại cảm, hay khách vãng lai ở nơi khác tìm đến nhưng tôi từ chối cả. Đối với người dưới xuôi cảm thấy lạ lẫm, chứ ở đây lại rất bình thường – anh Tân cho biết. Đã quá trưa, cũng là lúc Tiến (tên thật là Bình đã “lộn về”) đang ngủ, trong lúc chờ đợi để hỏi chuyện cậu bé.
Anh Tân cởi mở nhắc lại chuyện cũ: Nguyễn Phú Quyết Tiến chính là cậu con trai duy nhất của anh chị Tân – Thuận, cháu sinh năm 1992 và đến khi 5 tuổi thì tai họa ập xuống, cháu ngã dưới dòng sông Bưởi ngay sau nhà và bỏ cha mẹ sang một thế giới khác. Đau khổ, suy sụp khi vợ chồng anh đã mất đứa con duy nhất dứt ruột đẻ ra và chị Thuận cũng không còn khả năng sinh con vì lý do sức khỏe.
Đến năm 2006, tại
Xóm Cọi cách đó không xa có cậu bé Mường có tên Bùi Lạc Bình, được gần 4 tuổi
nhưng có nhiều biểu hiện rất lạ kỳ, có thể nhận thức được toàn bộ chuyện “tiền
kiếp” bằng tiếng Kinh của mình như thế nào. Cha mẹ người Mường nhưng từ khi
biết nói nó lại chỉ thạo tiếng Kinh, mặc dù không ai dạy.
Người đầu tiên phát
hiện ra câu chuyện là cô giáo Đông, người dạy Tiến khi còn sống học ở Trường
mầm non Hoa Hồng cách nhà mấy bước chân. Tình cờ một lần cô giáo Đông vào xóm
Cọi gặp Bình đang chuẩn bị vào mẫu giáo, cô Đông hỏi cháu bé muốn học ở đâu thì
đột nhiên cháu bé bảo: “Muốn học ở Trường Hoa Hồng gần nhà tại thị trấn”.
Sao cháu lại biết được trường đó, cô Đông thắc mắc không hiểu tại sao một thằng bé 4 tuổi, chưa bao giờ được mẹ đưa xuống thị trấn và nói tiếng Kinh một cách rành rọt đến vậy.
Nghe cô hỏi, Bình đáp
lại một cách hồn nhiên: “Nhà cháu gần nhà ông Lai (tức hàng xóm nhà anh Tân)
nên cháu biết”. Nghe đến đây, cô Đông như bủn rủn chân tay, mọi chi tiết đều
trùng khớp một cách kỳ lạ, cô linh cảm một điều rất khó tin về Tiến đã mất con
anh Tân đang liệu có trở về. Tuy nhiên, sợ chuyện “khó tin” này đem kể ngay cho
vợ chồng anh Tân, cô Đông sợ gia đình chỉ nhận thêm nỗi buồn bởi chuyện này quá
kỳ lạ.
Kể từ đó cô âm thầm để ý thằng bé, và người thứ 2 biết đến dấu hiệu bất thường của Bình chính là chị Dự, một người phụ nữ bất hạnh – Mẹ đẻ cháu Bình. Hai người phụ nữ đều nhận thấy biểu hiện lạ lùng của Bình tâm sự với nhau.
Cô Đông đem chuyện kể lại với những giáo viên trong trường, trong đó có cô giáo Phương là bạn thân của chị Thuận vợ anh Tân, thế rồi cô Phương đem chuyện kể lại với cô Thuận rằng: “Có đứa bé 4 tuổi bên xóm Cọi tính tình y hệt thằng Tiến nhà chị, cứ đòi về đúng nhà, học đúng trường”. Bán tín bán nghi, chị Thuận đem chuyện kể lại cho chồng… Anh chị bắt đầu hành trình đi tìm con theo những lời tiên ứng trùng khớp trước đó.
Kể đến đây, anh
Tân hút điếu thuốc rồi đôi mắt nhìn xa xăm nghĩ về điều dự báo của hai người
thầy bói lẽ nào có ngày thành sự thật. Anh nhớ ngày Tiến mất có bà thầy bói
Mường bảo: “Nó thiêng lắm, rồi sẽ sớm về thôi”.
Nghĩ lại, anh chẳng tin gì vào mấy chuyện đó cả, nỗi đau chưa thể nào quên, anh cho rằng có thể họ muốn an ủi mình. Thấm thoắt Tiến đã mất được 3 năm, vào năm 2000 cũng là lần thứ 2 anh đi xem bói ở chỗ thầy Di trên Hòa Bình để xem ngày lành, tháng tốt sang cát cho con, lần này cũng vậy, thầy dự báo trước sau gì nó cũng “lộn” về. Không cần sang cát chỉ xây đắp mộ con thêm chắc chắn.
Ngày Tiến trở về ngôi nhà cũ mọi chuyện cũng trở nên bình thường, em cũng học hành vui chơi cùng bè bạn. Trong con mắt người dân nơi đây, Tiến là đứa trẻ ngoan, được bà con xóm làng rất quý mến. Chẳng ai tỏ ra thắc mắc hay khó tin về câu chuyện đó nữa và đây cũng không phải trường hợp trẻ “tái sinh” đầu tiên ở Vụ Bản mà còn nhiều trường hợp “con lộn” khác cũng nói về tiền kiếp của mình tương tự như Tiến, biết ai là cha mẹ, tên tuổi người thân của mình trong “kiếp” trước.
Điểm khác biệt duy
nhất ở trường hợp này là Tiến quay về ăn ở hẳn trong ngôi nhà khác mà cậu cho
rằng mình được bố mẹ sinh ra. Nghĩ một chút về những người “hưởng” kiếp luân
hồi xem ra cũng chẳng có gì quá đặc biệt bởi một lẽ họ sống hòa nhập bình
thường như mọi người.
Không có khả năng gì thần thánh hay siêu phàm mà ta nghĩ họ từ cõi chết “lộn” lên, điều đó cũng là lý do chưa có trường hợp nào lợi dụng việc “hơn người” để tăng tính dị đoan vì một mục đích nào đó gây ảnh hưởng đến xã hội.
Quyết Tiến - một đứa trẻ hàn gắn nỗi đau
Bất chợt tôi nghĩ
đến chị Dự, tự hỏi rằng kiếp luân hồi có quá vô tình khi “cướp đi” linh hồn đứa
con đẻ của chị Dự mang sang gia đình khác, có phải số phận đã quá bất công với
người phụ nữ khi mà cha mẹ và chồng của chị đã mất cả, còn mỗi Bình là người
con dứt ruột đẻ ra cũng không thừa nhận chị là mẹ đẻ từ khi nó mới biết nói.
Trong tiềm thức của nó chỉ có anh Tân, chị Thuận mới là người sinh thành, vô tâm tôi nghĩ còn mỗi đứa con là tài sản lớn nhất cũng đã xa rời nốt, người mẹ đó hiện đang sống ra sao. Vậy kiếp luân hồi có sự bù trừ nào công bằng không?
Bùi Lạc Bình (Nguyễn Phú Quyết Tiến) bình thường như những đứa trẻ khác
Đang băn khoăn thì cũng là lúc Tiến vừa ngủ dậy, nhìn qua cũng chẳng thấy em có gì “khác người”, đôi mắt sáng trong, giọng nói lanh lợi lễ phép chào tôi. Tiến học rất giỏi, hiện đang là học sinh lớp chọn của Trường THCS Vụ Bản. Anh Tân trêu: “Anh này làm cùng mẹ Dự muốn đón con về bên xóm Cọi chơi ít hôm đấy”.
Nghe xong, nó ngượng nghịu quay mặt đi chỗ khác tỏ vẻ lo lắng lắm, trước khi chia tay anh Tân cậu bé đã dẫn tôi đi 1 vòng qua ngôi Trường Hoa Hồng để lên UBND xã. Có nhiều người bảo những trường hợp như thế này thường thì qua một Giáp, nghĩa là sau 12 tuổi đứa trẻ càng lớn thì càng quên dần về quá khứ của nó.
Anh Tân cũng nhận xét đúng là cháu Tiến đang quên dần về “tiền kiếp”, nó cũng rất ít thể hiện điều đó cho người lạ biết, trừ khi làm nó bực tức nếu bắt ép về xóm Cọi (nhà mẹ đẻ) thì nó mới thể hiện lời nói “lạ”. Cháu không còn tự nhận bằng vai phải lứa với đám bạn đã gần 20 tuổi kiểu “mày – tao” như còn bé.
Khi tôi hỏi Tiến có còn nhớ chỗ mình ngã xuống sông thì cháu lắc đầu, tôi hỏi nhớ mẹ Dự không, cháu trả lời lí nhí là không nhớ. Theo anh Tân, tương lai cháu Tiến còn dài phải lo cho cháu nên người, có hay không chuyện cháu quên “tiền kiếp” và lựa chọn cuộc sống cho riêng mình sau này hay không là điều mà anh quá coi trọng.
Chia tay anh Tân, tôi tìm về ngôi nhà bên xóm Cọi mà Bình – Tiến đã sinh ra. Nhìn căn nhà nghèo xơ xác không một bóng người, nằm cô quạnh trong buổi xế chiều. Hỏi ra, chị Dự đang làm trên Hà Nội đã lâu…
Tôi hẹn gặp được chị Dự cũng là lúc chị vừa gạt xong những giọt mồ hôi kết thúc một ngày làm việc đầy vất vả ở một công trường tại Hà Nội, hỏi ra mới biết công việc chị làm phụ hồ trên này cũng được gần 2 năm. Nhìn thân hình mảnh mai, gầy gò của chị, tôi hỏi: “Sao chị không tìm công việc gì thích hợp hơn?”. Chẳng chút đắn đo, chị bảo: “Dù làm bất kể việc gì cũng tôi chẳng nề hà, có thế nào vẫn hơn ở quê, mình nuôi được thân mình không phiền đến ai” – chị Dự nói.
Gặp tôi lần đầu,
cách nói chuyện của chị xem ra rất khiêm nhường và có điều gì đó rất cảnh giác
với người lạ. Để đến khi tôi mang bức ảnh cháu Bình khoe với chị khi chụp ở nhà
anh Tân và sang tuần Bình vào lớp chọn của Trường Vụ Bản, đã lâu chị không được
về thăm con nghe tin của tôi nét mặt chị rạng ngời hẳn lên.
Đem những thắc mắc
cá nhân chia sẻ với chị Dự, chị kể lại cuộc đời mình trái hẳn với suy nghĩ của
tôi. Một người mẹ nghèo và can trường, sống chịu đựng và đầy cao cả. Cha mẹ mất
sớm, chị lập gia đình một cách miễn cưỡng.
Cùng một mái nhà nhưng tình cảm vợ chồng chẳng mặn mà, đến năm Bình lên 3 thì chuyện lạ kỳ đó xảy ra… Khi cháu biết nói thì rất thạo tiếng Kinh, lớn hơn một chút không hiểu tại sao cứ vào ngày Rằm, mùng Một hằng tháng, nó lại lăn ra ốm rất nặng và nằng nặc đòi về dưới thị trấn.
Trời xui đất
khiến, tôi nào có biết ngôi nhà đó là của ai. Tháng nào cũng phải đèo nó đến số
nhà 25 đường Hữu Nghị như một liệu pháp chữa bệnh kỳ quặc, khi về nhà nó đỡ
thật. Nhớ một lần, hôm đó 2 mẹ con đang ngồi dưới cái nắng chang chang như
chẳng một lý do nào cả, khi đó chị Thuận đi làm về theo thói quen chị đóng cửa.
Mắt nó nhìn chằm chằm vào chị Thuận, trên đường về nó tỏ vẻ giận dỗi: “Lần sau mẹ đừng bao giờ đưa con đến ngôi nhà đó nữa”. Sau này tôi mới hiểu, nó trách chị Thuận đã không nhận ra và mở cửa cho nó vào nhà – chị Dự kể.
Có hôm dở chứng, nó đòi về nhà thay quần áo. Chị nghĩ trẻ con nói vu vơ, trách nó: “Mẹ có nghèo nhưng chẳng để con thiếu thốn, rách rưới, nhà mình đây sao con phải bắt mẹ đèo đến nhà người ta xin quần áo như thế”. Giận con chị đánh nó mấy cái, bỗng dưng nó gào khóc: “Mẹ mà đánh con sẽ chết lần nữa cho mà xem…”. Ngày anh Hoan mất, gọi cháu vào thắp bên linh cữu cha nó nén nhang nó cũng không vào. Mãi về sau, nó lặng lẽ an ủi chị Dự: “Mẹ đừng buồn, có thật là cha đã mất rồi không?”.
Nhớ lại ngày anh
Tân sang làm thủ tục nhận con trên huyện, chị khóc thương con rất nhiều, gạt đi
nước mắt chị nghĩ, vợ chồng anh Tân cũng đáng thương, đặc biệt là chị Thuận
không còn khả năng sinh con nữa, đó mới chính là điều mất mát quá lớn của một
người mẹ. Bằng sự cảm thông của hai người phụ nữ, ngẫm lại số phận cũng thật
công bằng.
Cháu Bình ra đời có sự sắp đặt rất thấu tình đạt lý, 5 năm đã qua chị chứng kiến cháu ngày một khôn lớn, không thể phủ nhận tình cảm hết mực yêu thương của anh Tân, chị Thuận. Mặc dù đã thay tên, đổi họ Tiến vẫn mãi là con đẻ của chị. Có thể không nói ra bằng lời, nhưng trong sâu thẳm chị hiểu nó rất hạnh phúc khi đang sống trong sự yêu thương của 2 người mẹ. “Thỉnh thoảng nó cũng dành thời gian động viên, tâm sự với tôi qua điện thoại” – chị Dự nói.
Kiếp luân hồi diễn ra với bất kỳ ai?
Anh Tân nhớ có lần cháu Tiến buột miệng trả lời câu hỏi vì sao lại bỏ bố mẹ không lời từ biệt như thế rằng: “Con có bỏ bố mẹ mà chết đâu, tại nó đẩy con xuống sông đấy chứ”. Anh tự nhủ “nó” là ai và nhớ lại cái ngày Tiến ngã sông chết, nghe tin dữ anh vội chạy ra bờ sông thì quá muộn, ôm chặt con mình mà lòng đau quặn thắt. Khi hỏi kỹ ra anh chợt nhớ đến có con bé hàng xóm vì tranh chỗ rửa chân nên đã đẩy nó ngã xuống, sang nhà hỏi chuyện thì nó chùm chăn khóc thút thít.
Chuyện đã qua, anh
chỉ hỏi nó một câu: “Vậy con có oán hận người bạn đã đẩy con xuống không?”. Thì
nó tròn mắt trả lời như ông cụ non: “Để xem con bé đó sau này có bằng được con
không?”.
Nghe điều này, anh cho rằng, chứng tỏ ở sâu tâm hồn nó không có chuyện hận thù với con bé kia, mà chỉ nói một cách vu vơ là sau này không bằng nó, có thể nó cho rằng, nó sẽ hơn con bé kia ở điểm nào đó chưa được diễn ra. “Tôi chỉ cười, nghĩ nó sau này thành người có ích cho xã hội” – anh Tân nói.
Theo anh đó cũng là ý kiến khá thuyết phục về kiếp luân hồi hay thấy xảy ra vào những đứa trẻ ngây thơ, dễ hiểu nó khác người lớn ở chỗ chưa dính chút bụi trần, tự nhiên phải bỏ mẹ cha nên “trời thương” mà cho“sống” lại.
Tôi đồng quan điểm với anh, thế nhưng trên thế gian này có hàng triệu sinh linh bé nhỏ cũng có thể chết oan uổng như vậy, liệu các em có được hưởng vòng xoay của kiếp luân hồi như trường hợp may mắn và lạ kỳ như con anh Tân được không?
Kiếp luân hồi là ngôi nhà chung của nhân loại, thoạt nghĩ kiếp luân hồi là chuyện cao siêu trong Phật Pháp, tuy nhiên đây được coi là vòng xoay trong muôn loài dù được thừa nhận hay không, thuyết luân hồi là sự hiển nhiên có thực trong cuộc sống.
Vấn đề kiếp luân hồi lại dễ nhận thấy ở người chết trẻ, tại sao họ lại có trí nhớ về quá khứ không ăn nhập gì với cuộc sống thực tại. Dưới góc nhìn của nhà tu hành, theo Đại đức Thích Thanh Huân, trụ trì chùa Pháp Vân, Hoàng Mai, Hà Nội diễn giải: Kiếp luân hồi là ngôi nhà chung của nhân loại, thoạt nghĩ kiếp luân hồi là chuyện cao siêu trong Phật Pháp, tuy nhiên đây được coi là vòng xoay trong muôn loài dù được thừa nhận hay không, thuyết luân hồi là sự hiển nhiên có thực trong cuộc sống.
Trước hết, ở góc độ
khoa học hiện đại đã có nhiều công trình nghiên cứu đối với người trẻ nhất là
trẻ con, họ cho rằng bộ óc của chúng có khả năng phát triển về trí nhớ mạnh,
khả năng nhớ lại tiền kiếp là rất lớn.
Trong vòng vài thập kỷ qua, vấn đề con trẻ nhớ lại những gì gọi là tiền kiếp đã được xem như vấn đề có cơ sở khoa học chứ không đơn thuần là chuyện mê tín huyễn hoặc nữa. Tuy nhiên, có lẽ vấn đề khó giải thích và khó chứng minh nên từ xa xưa chưa có nhiều người, nhất là giới khoa học đứng ra nghiên cứu và phổ biến rộng rãi.
Đại đức Thích Thanh Huân, trụ trì chùa Pháp Vân
Nhà khoa học
Stevenson thuộc Đại học Virginia (Hoa Kỳ) đã bỏ ra một thời gian dài nghiên cứu
về các trường hợp luân hồi tái sinh (Reicarnation) từ con trẻ, mà theo ghi nhận
qua hơn 2.500 trường hợp nhớ lại những gì của thời quá vãng, cái thời mà với
lứa tuổi của chúng (có trẻ chỉ 4-5 tuổi) – tương tự như cháu Tiến ở Hòa Bình,
người ta không thể cho là ở trước đó một vài năm mà rất xa, có nghĩa rằng phải
dùng tới chữ kiếp trước của chúng.
Hơn nữa, những gì mà các em bé này nhớ, kể
lại, mô tả lại hoàn toàn không ăn nhập gì với hoàn cảnh và thời gian mà chúng
đang sống ở hiện tại. Chúng thường mở đầu bằng hai chữ “lúc đó”, “hồi đó” bằng
tính cách không đứng đắn với sự mô tả hoặc có sự liên hệ, chỉ bảo của người
lớn, những lời nói mà trí óc chúng không thể có sẵn và tưởng tượng được.
Như lời cậu bé Tiến 3 tuổi đã biết đòi về nhà “nếu không sẽ chết thêm lần nữa”. Khoa học hiện đại cũng ghi nhận về dấu vết bẩm sinh trên cơ thể các cháu bé (birthmarks) hoặc ngay cả những trường hợp quái thai (birth defets). Khi những cháu bé này nhớ lại tiền kiếp của chúng thì thường có sự liên hệ lạ lùng giữa sự kiện với dấu vết bẩm sinh hay dị tật mà chúng đã mang trên cơ thể.
“Dấu vết” để lại trong vòng xoay kiếp luân hồi
Trước đây, vấn đề
luân hồi, tái sinh, tiền kiếp, hậu kiếp chỉ được xem như là vấn đề của một số
thuyết tôn giáo. Ngày nay, chính các nhà khoa học đã bắt đầu thực sự tiến bước
vào sâu trong lĩnh vực nghiên cứu vấn đề này.
Từ thập niên 60 đến nay, nhiều nhà khoa học trên thế giới và đặc biệt ở Á Đông trong đó có nước ta – nơi mà Phật giáo ra đời, phát triển – đã dấn thân vào việc tìm hiểu vấn đề luân hồi đã dài thêm ra. Kết luận trung thực cho vấn đề đầy tính thâm sâu huyền bí vẫn còn chờ ở phía trước.
Qua hàng ngàn câu
chuyện đã được ghi nhận xảy ra trên khắp thế giới với chứng cứ và tư liệu rõ
ràng chứng minh vấn đề luân hồi đã được thu thập. Nhưng các nhà nghiên cứu,
nhất là các nhà khoa học còn muốn thêm càng nhiều càng tốt những hiện tượng đã
xảy ra có liên hệ đến những gì mà gọi là “những tài liệu chứng minh”.
Những hiện
tượng có thể xem là những dấu tích của luân hồi theo các nhà khoa học, nếu luân
hồi là có thật thì ít ra trên chặng đường chuyển hóa từ kiếp này sang kiếp khác
phải có dấu vết rơi rớt lại không nhiều thì ít, cũng giống như trong lịch trình
tiến hóa của sinh vật nói chung và con người nói riêng.
Bằng chứng đã có rất nhiều dấu tích còn lại trên cơ thể sinh vật và sự kiện ấy đã giúp các nhà sinh vật học, nhất là cổ sinh vật học biết được những gì đã xảy ra trong quá khứ xa xăm mà thời gian diễn ra đến hàng triệu năm.
Trong dân gian vẫn
thường truyền tai nhau về chuyện dấu tích được xem như có liên quan đến đầu
thai đó là vết chàm, vết bớt in hằn trên da đứa trẻ. Lũ trẻ thường trêu nhau
là: “cái đồ vá chó” hay đồ “con lộn” chính từ lý do đó. Những dấu vết ấy được
khẳng định trong y học hình thành từ trong bụng mẹ, với hình dạng, màu sắc khác
nhau.
Theo một số nhà y học giải thích, do những tác động bên ngoài lên cơ thể
người mẹ hay tự bản thân cơ thể người mẹ đã ảnh hưởng lên thai nhi trước khi
hài nhi chào đời. Mặc dù vậy, giải thích này cho đến nay cái dấu tích ấy chẳng
ảnh hưởng gì đến đứa bé và người ta có thể tẩy xóa hoặc cắt đi một cách đơn
giản.
Sự giải thích vẫn nằm trong vòng luẩn quẩn như: vết bẩm sinh từ tác
động lúc người mẹ mang thai do uống thuốc, xáo trộn chuyển biến cơ thể, do bệnh
lý, hiện tượng di truyền v.v… Tuy nhiên, vẫn chưa có giải thích nào thuyết
phục.
Quan niệm được xem phổ biến nhất trong dân gian cho rằng đó là “đầu
thai”. Bởi vậy, có nhiều gia đình gặp chuyện không may tâm niệm quệt vết mực
lên người đứa trẻ để lại một dấu tích hy vọng sau này nhận biết được nó.
Xin trở lại trường hợp cậu bé Quyết Tiến, ngày Tiến mất, anh Tân cũng từng có suy nghĩ quệt lên chân nó vết mực như quan niệm dân gian nhưng anh nghĩ có rất nhiều trường hợp trùng hợp và nhận biết thông qua vết tích. Lúc đó anh muốn con được siêu thoát, chẳng tin vào mấy chuyện “đầu thai”. Cuối cùng thì cậu bé “vẫn về” ở một lý do khác được nhận biết rõ ràng hơn.
Luận bàn Nghiệp và Nhân – Quả trong kiếp luân hồi
Một sinh vật sống
bao gồm thể xác và linh hồn, luân hồi là vòng sinh – tử sau khi mất đi sẽ
chuyển từ dạng thức này sang dạng thức khác chứ không phải mất hết. Thể xác có
thể “trở lại với cát bụi” nhưng tinh thần (linh hồn) trong Đạo Phật gọi là
Nghiệp (thói quen, việc làm tốt hay xấu khi sống). Linh hồn vẫn có thể diễn ra
và tồn tại ở một thể xác khác mà người ta quen gọi là chuyện “kiếp trước” hay
“kiếp sau”.
Con người từ đâu sinh ra? Chết rồi đi về đâu? Tại sao giữa đời lại
có những kẻ giàu, nghèo, sang, hèn, đẹp, xấu, trí, ngu sai biệt? Tại sao có
người hiền lành mà thường gặp việc khổ sở không may, kẻ hung ác lại được an vui
phát đạt? Đây là mối nghi nan thắc mắc chung của đa số người. Và theo như tôn
giáo nhà Phật, tất cả sự việc này bao gồm trong vấn đề “Luân hồi nhân quả”.
Luân hồi và nhân quả là hai sự kiện tương quan.
Bởi con người còn mang nghiệp trái của nhân quả thiện – ác nên mới bị luân hồi. Và sự luân hồi khổ vui đều do ảnh hưởng tốt xấu của nhân quả thiện – ác, mà nơi phát sinh lại từ thân, ngữ, ý. Nhân nào quả nấy, trạng thái vô cùng! Còn luân hồi là sự xoay vần của Nghiệp.
Quả báo lành, dữ được cho từ Tâm tạo ra. Tâm nóng giận, tà dâm, dửng dưng, độc ác, tham lam là tạo nghiệp chướng. Vậy muốn hưởng quả lành, phải tu nhân tịnh, dễ hiểu là việc tu nhân tích đức. Khi chúng ta đã õ biết rõ luật nhân – quả, thì cũng chẳng thể từ chối không nhận thuyết luân hồi.
Luân hồi là nhân quả liên tục, có ảnh hưởng
chi phối lẫn nhau từ kiếp này sang đến kiếp khác, chỉ có những bậc chứng nhân
không mới thoát khỏi vòng luân hồi đó mà thôi. Vậy Nhân Quả là gì? Nhân là
nguyên nhân, Quả là kết quả, nguyên nhân gây ra thế nào, kết quả ra thế ấy.
Nói theo lối khác, Nhân là hạt giống, Quả luận với tính cách rộng hơn, là hoa trái. Gieo trồng hạt giống thuộc hoa trái nào, tất sẽ được hoa trái ấy. Người nào tạo nhân nào, người đó hưởng quả nấy.
Về phương diện nghiệp nhân, trong kiếp sống, loài người khi gây Nhân có ba điều khái yếu: Nghiệp thiện, Nghiệp chướng và Bất động nghiệp. Bất động nghiệp là những nhân thiền định, như thế gian thiền, ngoại đạo thiền, xuất thế gian thiền…
Ba nghiệp nhân trên phát sinh từ thân, ngữ, ý. Nhân lành của thân là làm việc thiện. Nhân lành của ngữ là nói những lời hay ý đẹp, lời chân thật. Nhân lành của ý là chỉ nghĩ việc tốt lành cho người. Nếu thân, ngữ, ý không làm những việc như trên, lại tạo thêm các điều thiện, gọi là ba nghiệp lành. Trái lại, là ba nghiệp ác.
Trong ba nghiệp, khẩu nghiệp dễ tạo hơn cả. Người xưa đã bảo “Đa ngôn đa quá”, nghĩa là “nhiều lời tất nhiều lỗi”. Vì thế khi thốt ra lời gì phải dè dặt suy nghĩ kỹ.Nếu trong ba nghiệp, khẩu nghiệp đã dễ tạo, thì ý nghiệp lại có năng dụng mạnh hơn cả. Nhân được tạo ra ngay từ những suy nghĩ rồi, nên hãy cẩn thận.
Khái niệm Nghiệp
rất quan trọng trong đạo Phật, đó là quy luật chung nhất về nguyên nhân và kết
quả. Theo đạo Phật mỗi tác động (nghiệp) – dưới một điều kiện nhất định sẽ tạo
thành một quả. Một khi quả đó chín, nó sẽ rơi trở lại người tạo ra nó. Muốn
thành quả, một nghiệp phải tốt (Thiện) hay xấu (Bất thiện) và được xem hành
động cố ý.
Vì sự cố ý đó, một nghiệp để lại dấu vết nơi tâm thức của người tạo
ra nghiệp và tâm thức đó sẽ hướng theo những sự tạo tác của chính mình. Thời
gian để một quả chín muồi có thể kéo dài rất lâu và chính nó tác động lên sự
tái sinh và làm loài hữu tình, trong đó có con người cứ lưu giữ mãi trong luân
hồi.
Một nghiệp được gây ra hoặc bằng một hành động thuộc thân, thuộc tâm hay
ngôn ngữ. Như thế khi người ta có ý làm cái gì thì đã tạo nghiệp, không nhất
thiết việc làm đó có xảy ra hay không. Chính tư tưởng đã tạo tác nghiệp. Một
hành động sẽ không gây nghiệp nếu nó được thực hiện mà không xuất phát từ tham,
sân, si. Nghiệp tốt có thể mang lại kết quả tốt trong một sự tái sinh. Tạo
nghiệp tốt không có nghĩa là chấm dứt tái sinh. Muốn thoát khỏi luân hồi, con người
phải từ bỏ nghiệp tốt lẫn nghiệp xấu.
Việc luân hồi nhân quả rất vô cùng, như
bánh xe quay tròn, vay trả trả vay, không biết khi nào là kết cục. Trong luân
hồi đã bao hàm nhân quả bởi nhân quả nên mới có luân hồi. Cần nói thêm, trong
luân hồi có hai nghiệp ái dục và sát sinh là nặng nhất.
Do sát sinh mới thành cảnh oan hờn, chém giết lẫn nhau. Ái dục được xem là nghiệp sâu nặng và mạnh mẽ nhất trong các thứ nhiễm lạc đời, khuyên bảo con người tránh việc sai trái mà làm hỏng đi quá trình tiến hóa.
Chuyện “đầu thai” không phải mê tín dị đoan
Theo TS Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc Liên hiệp KHCN – Tin học ứng dụng (UIA), hiện tượng này cần được nhìn nhận và nghiên cứu trước khi khẳng định hay phủ định, hiện tượng “đầu thai”, “tái sinh” hoàn toàn không phải chuyện mê tín mà chỉ nên coi là hiện tượng khó lý giải mà khoa học chưa với tới được. Thực tế cho thấy, ngoài trường hợp cậu bé Tiến ở Vụ Bản, có rất nhiều trường hợp khác đã được ghi nhận bất chấp tin hay không.
“Vấn đề này đã từng gây tranh cãi, nếu phủ định hoàn toàn thì đó là mê tín chủ quan, coi việc mình không biết là không đúng, không có thật. Tuy nhiên, ở góc độ khoa học cũng không nên để mình rơi vào trạng thái mê tín cực hữu, nghĩa là tin mê muội, không cần rõ đúng sai. Cần phải hiểu rõ vấn đề, tránh hoang mang trong dư luận”.
Chết liệu đã hết?
Thuyết luân hồi trong Phật giáo cho rằng, từ xưa đến nay, cảnh đời người trải qua biết bao cuộc bể dâu diễn biến và người đời mãi tranh đua ganh ghét tàn hại nhau vì mối danh, lợi, sắc, tài. Chính điều này gây ra nhiều nỗi khổ bởi gây nhiều tác nghiệp, mà sở duyên của nghiệp, lại từ nơi vọng tâm mê hoặc cố chấp lấy cái tôi. Nếu biết trở lại nguồn chân mà chặt đứt gốc vô minh ngã chấp thì nghiệp chướng được xóa bỏ.
Luân hồi là một thuyết có chứng nghiệm, không phải hoang đường.Nhiều người cho rằng, loài người cũng như loài vật, khi chết rồi thì cả linh hồn và thể xác đều tiêu hoại, không có đời sau. Thuyết này không đúng. Xin nhắc thêm, không chỉ loài người mà loài vật cũng có linh hồn, điều này lý giải tại sao nhà Phật rất kiêng kị chuyện sát sinh. Người có thể “đầu thai” thành kiếp vật hay ngược lại. Phần linh hồn từ đó mà có chuyện “oán thán”, gây thành nghiệp chướng cho đời sau.
Một trường hợp dị tật được xem là liên quan đến chuyện đầu thai
Xưa nay trong thế giới, Đông cũng như Tây phương, rất nhiều sự thật chứng minh con người có chuyển kiếp ở đời sau. Nếu cho rằng không có việc tội, việc phúc liên quan đến đời sau, thì xã hội sẽ không yên, thế giới này đại loạn, con người tha hồ tạo đủ những việc thuộc Tham – Sân – Si, không ai tu thiện làm gì, bởi theo họ: chết rồi là hết. Cho nên lối suy nghĩ này đã sai lầm, lại còn rất nguy hiểm.
Điều đó lý giải phần nào về trường hợp cậu bé Quyết Tiến ở Hòa Bình. Theo quan điểm thầy Huân: “Kiếp luân hồi không có gì huyền bí hay huyễn hoặc, có rất nhiều trường hợp đã được ghi nhận trên thế giới, điều đó trở nên huyền bí do khoa học hiện đại của con người vẫn chưa có cách chứng minh thuyết phục được thế giới vô hình mà thôi”.
Cậu bé Tiến “trở về” cùng bố mẹ có thể hiểu theo đúng nghĩa của kiếp tái sinh do em còn phúc duyên, còn tình cảm nặng lòng với mẹ cha mà được quay về. Con người ai cũng có kiếp luân hồi, không phân biệt tuổi tác già hay trẻ, chỉ khác nhau ở chỗ linh hồn và thể xác họ sẽ chuyển hóa thành thực thể nào, thiện – ác phân minh khi chết vẫn tái sinh thành người không phải ai cũng hưởng điều đó.
Thầy Huân cũng cho rằng: “Không nên xem chuyện tái sinh là điều kỳ lạ, hoang đường, hãy nghĩ đến điều con người muốn hướng đến cuộc sống sao cho ý nghĩa, hiếu nghĩa với mẹ cha, thực hiện những việc làm nhân văn để sau này hưởng luật nhân quả, không được tái sinh thì ít nhiều tạo điều phúc cho con cháu, đó mới là điều ý nghĩa và quan trọng trong thuyết Luân hồi của nhà Phật.
Nghiệp làm con người tái sinh trong một cuộc đời, một hoàn cảnh nhất định, nhưng hành động con người trong cuộc đời đó vẫn có sự tự do. Nghiệp sinh ra hoàn cảnh, sự phản ứng đối với hoàn cảnh lại nằm trong tay con người.
Chuyện cậu bé “tái sinh” đấy là một minh chứng trong vô vàn trường hợp khác, tôi tin quan niệm “chết là hết” chưa hẳn đã đúng, phải chăng chỉ là tiếng thở dài vô thức trong đời người mà thôi…”. Còn theo quan điểm cá nhân tôi, kiếp luân hồi là có thật trong cuộc sống. Thật ở chỗ loài người vẫn đang đau đầu đi tìm lời giải đáp, sẽ còn kéo dài từ đời này sang đời khác…
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự