Điểm đặc biệt đầu tiên trong Phật Giáo là Ðức Phật không phải một vị trời hóa sinh, cũng không phải là Thượng Ðế hay bậc siêu nhân. Ngài là một chúng sinh, là một con người, nhưng là con người phi thường, con người cao thượng bậc nhất.
Bharat Singh Upadhyaya - Nhà tôn giáo học Tây Phương nổi tiếng Sự thị hiện của đức Thế Tôn như sau: “Điểm đặc biệt đầu tiên trong Phật Giáo là Ðức Phật không phải một vị trời hóa sinh, cũng không phải là Thượng Ðế hay bậc siêu nhân. Ngài là một chúng sinh, là một con người, nhưng là con người phi thường (accariya mamussa), con người cao thượng bậc nhất (purisuttama)". Ðức Phật dạy: "Này chư vị tỳ khưu, sen mọc từ trong bùn, vượt ra khỏi mặt bùn và không bị hôi tanh mùi bùn. Cùng thế đó, Như Lai sinh từ thế giới sa-bà, sống trong thế giới sa bà nhưng không bị ô nhiễm bởi thế giới sa bà". Tự tinh tấn, không thầy chỉ dạy, ngài đạt tới trí tuệ cao thượng, ngài trong sạch và thánh thiện hoàn toàn. Ngài là hiện thân của lòng từ bi và trí tuệ; đó là hai đặc tính trong giáo pháp của ngài. Bằng đời sống và kinh nghiệm của ngài, Ðức Phật đã chứng minh giác ngộ và giải thoát nằm trong tầm tay của con người. Ngài là vị giáo chủ duy nhất trên thế gian chỉ dạy giải thoát không từ bên ngoài mà từ thân-tâm của chính mình, và khuyến khích con người "hãy nương tựa nơi mình. Như Lai là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành". Phật dạy: "Như Lai chỉ con đường giải thoát. Giáo Pháp, Chân Lý chỉ có thể tự chứng ngộ". Không một ai có thể giải thoát cho ta. Chư Phật, chư bồ tát, chư tổ từ bi có thể giúp ta một cách gián tiếp bằng ân điển tha lực trợ duyên cho ta tu học, nhưng chính ta tự giác ngộ, tự tỉnh thức, tự giải thoát. Giác ngộ chỉ đến cho những ai không còn bị ô nhiễm. Mỗi cá nhân phải tinh tấn phá vỡ cái còng trói buộc của mình bằng sức nhẫn nại, tự lực và thiền định. Con đường xưa là con đường mà tất cả chư Phật quá khứ đã thực hành. Ðó là Bát Chính Ðạo, con đường dẫn đến giải thoát. Những ai trau dồi phẩm hạnh này sẽ giác ngộ (arahatta), giải thoát khỏi khổ đau. Những người này được Ðức Phật nhìn nhận không còn bị ô nhiễm và đã giải thoát: "Chiến thắng như ta, những người này đã diệt trừ ô nhiễm". Một đặc điểm khác của đạo Phật là phương pháp truyền dạy và học hỏi giáo pháp. Ðức Phật không đòi hỏi hay chấp nhận đệ tử mù quáng tin nơi ngài hay giáo pháp của ngài. Ngài nhấn mạnh đến sự suy luận và trí huệ. Giáo sư Phật học Narada Mahathera Đức Phật thị hiện là một chúng sinh duy nhất, một nhà tư duy sâu sắc, một nhà diễn giả thuyết phục, một hành giả nhiệt tâm, một nhà cải cách thành công, một bậc đạo sư khoan dung và từ bi, và cũng là một nhà quản trị tài ba nhất trong lịch sử nhân loại. Điểm đáng chú ý nơi Đức Phật đó là sự thanh tịnh tuyệt đối và sự thánh thiện viên dung. Chính vì sự thanh tịnh và thánh thiện đó mà ngài được tôn xưng là "Bậc thánh thiện nhất trong những người thánh thiện". Ngài là hiện thân của những đức tính siêu tuyệt mà Ngài đã từng giảng dạy. Không khi nào Ngài biểu hiện sự kém cỏi về đức hạnh. Bất cứ ai khi được tiếp xúc với Ngài đều nhận thấy được sự vĩ đại của Ngài thể hiện qua cá tính tuyệt vời của một đấng từ tôn. Ý chí, tuệ giác, lòng từ bi, tinh thần phụng sự quên mình, đời sống mẫu mực, những phương pháp truyền giáo toàn thiện và sự thành tựu tối hậu của Ngài đã cho chúng ta thấy rằng Ngài là một vị đạo sư vĩ đại nhất. Tiến sĩ S.Radha Krishnan - một nhà lãnh đạo của Ấn độ đồng thời là một nhà triết gia, đã thể hiện lòng tôn kính đối với Đức Phật như sau: Nơi Đức Phật Cồ Đàm, ta nhận thấy một mẫu người tinh hoa toàn thiện của phương Đông. Ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hi hữu, nó tỏa rộng và sâu sắc hơn ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh từ tinh hoa các bậc hiền trí, bởi vì xét về phương diện lý trí thuần tuý, chuẩn mực đạo đức và tuệ giác tâm linh, thì chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất trong lịch sử". Sử gia H.G. Well Trong tác phẩm :"The Tree Greatest Men in History", sử gia H.G.Well đã viết: "Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản dị, nhiệt tâm với đạo pháp, một mình phấn đấu cho ánh sáng tươi đẹp, một phẩm chất chói ngời, một con người thực thứ không phải nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết hoang đường. Ngài đã mang lại một bức thông điệp cho tòan thể nhân loại. Nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi, tương đồng với bức thông điệp ấy. Ngài dạy rằng tất cả những đau khổ và bất mãn trong cuộc sống đều do lòng ích kỷ sinh ra. Trước khi một người có thể trở nên thanh tịnh, anh ta cần phải thay đổi lối sống cho riêng mình. Rồi từ đó anh ta vươn lên trở thành vĩ nhân. Bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, Đức Phật đã kêu gọi con người hãy từ bỏ bản ngã của chính mình để sống một đời sống vị tha. Trong một vài chiều hướng, Đức Phật gần gũi với chúng ta hơn và cũng đáp ứng được những nhu cầu của chúng ta. Đối với tầm quan trọng của cá nhân trong tinh thần hi sinh và phục vụ, Ngài tỏ ra sáng suốt hơn đối với vấn đề trường tồn của kiếp người. Đức Phật thực sự là một con người, nhưng là một người phi thường bởi lẽ Ngài không phải bị sinh ra mà Ngài thị hiện nơi trần gian giả tạm. Ngài thấy được những khả năng tiềm ẩn cũng như sức mạnh sáng tạo của mọi người. Ngài không tự tôn mình là một đấng thần linh mà chỉ khuyên nhủ đệ tử của mình hãy noi gương Ngài mà tu tập vì Phật tính luôn tìm ẩn trong mỗi người. Bertrand Russell, người được tặng giải Nôbel văn chương vào năm 1950 Ông đã ca ngợi Đức Phật là "nhà vô thần kỳ vĩ nhất của mọi thời đại". Để tạo nên nền hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại, thì sự tỉnh thức thuần hậu về tôn giáo là một yếu tố hoàn toàn cần thiết trong thế giới mà nền đạo đức bị suy đồi trầm trọng như hiện nay. Điều quan trọng là không phải đức tin hời hợt vào giáo lý, tín điều hay sự quan sát cạn cợt đối với những nghi lễ truyền thống phục vụ cho quần chúng, mà chính là một đời sống hữu ích, thanh tịnh, chan chứa một tình thương dào dạt, hòa trong nguồn tuệ giác vô biên và lối hành xử cao đẹp dựa trên những nguyên tắc cao thượng mà các vị giáo chủ đã chỉ dạy. Giáo sư Joad Vào thế kỷ thứ`VI trước Tây lịch, ở Ấn Độ và Trung Quốc đã xuất hiện ba vị đạo sư vĩ đại. Họ đã giúp nhân loại hiểu rằng việc thực hiện những gì đúng đắn mang lại lợi ích cho bản thân là vô cùng quan trọng, dù rằng có Thượng đế hay không. Trong ba vị đạo sư ấy, Đức Phật Cồ Đàm là vị thầy siêu tuyệt nhất. Đức Phật nhấn mạnh rằng đạo đức là một phương tiện quan trọng để đạt đến cứu cánh. Ngài khuyên chúng ta nên trau dồi chính tư duy vô ngã, lòng từ và vô hại; tu tập chính ngữ là từ bỏ lời dối trá, độc ác; thực hành chính nghiệp là từ bỏ sự sát sinh, trộm cướp dù trực tiếp hay gián tiếp và từ bỏ tà hạnh; và chính mạng là tạo ra tài sản của cải một cách hợp pháp, không bóc lột, đúng đạo lý . Tất cả những điều trên đều đặt trên nền tảng đạo đức. Đức Phật đã thuyết giảng bức thông điệp thấm nhuần luân lý đạo đức, chan chứa lòng từ bao la và tinh thần phụng sự vô ngã không chỉ cho các bậc vua chúa vương tử, các nhà quý tộc, triệu phú, mà còn giảng dạy cho những người hèn hạ, nghèo cùng, khốn khổ. Ngài mang lại sự bình đẳng cho mọi người và đề cao địa vị của con người. Ngài tuyên bố rằng con đường đưa đến sự thăng hoa tâm linh đang rộng mở cho tất cả mọi người, ai cũng như ai, cao sang hay thấp hèn, bậc đạo đức hay kẻ phạm tội, những ai đang cố gắng sống một cuộc sống thuần thiện, hoàn hảo . Nhà Phật học J.H. Zetland Đức Phật đã tạo nên một mô hình xã hội không có giai cấp bằng cách thiết lập Tăng đoàn cho những người muốn kế thừa sự nghiệp của Ngài, không phân biệt giai cấp, tầng lớp xã hội, chỉ có sự phân định về giới phẩm như : Sa di, Tỳ kheo, Thượng tọa, Thượng tọa Trưởng lão và sự thành tựu thứ lớp chứng đắc bốn Thánh quả siêu thế. Các nguyên tắc của Tăng đoàn được hình thành cũng mang tính dân chủ. Liên hệ về điều này, J. H. Zetland đã nói :"Nhiều người rất ngạc nhiên khi nhận ra rằng các cuộc hội nghị của người Phật tử tại Ấn độ cách đây hơn 2500 năm đã trở thành những mô hình căn bản mà ngày nay chúng ta thực thi tại nghị trường. Cũng thế, lần đầu tiên trong lịch sử, Đức Phật đã thành lập giáo đoàn Tỳ kheo ni cho người phụ nữ, không phân biệt tầng lớp hay đẳng cấp xã hội. Ngài đã mang lại quyền bình đẳng cho người phụ nữ trong sự thăng tiến tâm linh". TS Radha Krisnan Đức Phật là một người giàu lòng khoan dung. Thiếu khoan dung độ lượng là kẻ thù lớn nhất của tôn giáo. Do đó Đức Phật khuyên các đệ tử Ngài không nên sân hận, bất mãn hay sầu buồn khi người khác phỉ báng Ngài, giáo pháp của Ngài. Ngài dạy rằng :"Nếu các con biểu lộ sự bất mãn thì không những các con đã tự tạo ra những nguy hiểm về sự mất mát tinh thần mà các con cũng không thể xét đoán những gì mà người ta nói là đúng hay là sai". Tiến sĩ Radha Krishnan nói rằng :"Đó là một tình cảm toàn giác cao thượng nhất suốt 2500 năm sau khi Đức Phật giác ngộ". Đức Phật không hề giảng dạy những giaó lý để người ta mù quáng tin theo, không yêu cầu con người phải chấp nhận những giáo điều, tín ngưỡng nếu chưa dùng lý trí để soi xét. Ngài không đặt ra lễ nghi mê tín để dẫn dắt người vào đạo, không bày ra sự sám hối hay tế lễ vô nghĩa để cầu sự thanh tịnh hoá. Đức Phật chỉ trình bày những chân lý đơn giản cho quần chúng và giảng dạy những triết lý thâm sâu cho giới trí thức. Ngài khuyên những người tìm cầu chân lý không nên tin vào quyền năng của một ai mà hãy thực nghiệm bằng trí tuệ và tự mình xem xét. |
Trần Kiêm Đạt |
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự