Sau khi đăng tải bài viết “Bao giờ hết cảnh sư tử nhe nanh “canh” đền chùa Việt Nam?”, Báo Pháp luật Việt Nam nhận được nhiều phản hồi tích cực từ dư luận, cơ quan chức năng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy để có thể trả lời thấu đáo câu hỏi: “Bao giờ hết?” thì vấn đề cần phải được tiếp tục bàn sâu hơn nữa ở nhiều góc độ…
Người dân tốn tiền vì… không bị nhắc nhở
Một ngày sau khi bài báo của Pháp luật Việt Nam ấn hành, ngày 10/9/2013 UBND thành phố Hà Nội đã có công văn chỉ đạo Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, UBND quận Cầu Giấy xem xét, giải quyết vấn đề sư tử đá ở cổng chùa Trung Kính Thượng (một ví dụ được nêu trong bài báo) nằm trên địa bàn quận Cầu Giấy.
Ngày 25/9/2013, UBND quận Cầu Giấy đã gửi công văn báo cáo kết quả cho biết, sau buổi kiểm tra thực tế và làm việc trực tiếp với nhà sư trụ trì, cặp sư tử đá ở cổng chùa Trung Kính Thượng đã được di chuyển ra khỏi khu vực chùa.
Khi làm việc với đoàn kiểm tra, nhà sư trụ trì chùa Trung Kính Thượng cho biết đôi sư tử này hiện diện ở chùa từ năm 2009 do một gia đình cung tiến sau khi chùa được xếp hạng di tích. Vì chưa nắm được quy định về việc tiếp nhận công đức, các hiện vật, đồ thờ tại di tích trên địa bàn Hà Nội nên sư thầy đã tiếp nhận vào di tích.
Có thể thấy không riêng gì chùa Trung Kính Thượng và nhà sư trụ trì ở đây mà rất nhiều đền, chùa ở Việt Nam đều có chung một lời giải thích như vậy lý giải cho sự hiện diện của những con sư tử đá kiểu Trung Quốc tại nơi thờ tự. Hay nói cách khác, cung tiến chính là “cách thức và con đường” để sư tử đá kiểu Trung Quốc đến với các đền, chùa Việt.
Vậy một câu hỏi đặt ra ở đây là phải chăng vẫn tồn tại một “vùng tối” của sự thiếu hiểu biết về văn hóa của những người cung tiến?. Nhưng xét cho cùng, đa phần người cung tiến cũng chỉ là người dân bình thường và sự hiểu biết của họ về văn hóa nói chung và “văn hóa sư tử đá” nói riêng chắc chắn sẽ có những hạn chế nhất định.
Như vậy, trách nhiệm sàng lọc và ngăn chặn diễn tiến của việc ảnh hưởng văn hóa ngoại lai lúc này đặt trên vai những bên có trách nhiệm, mà cụ thể là cơ quan quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, quản lý Nhà nước về Phật giáo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam...
Một sự cảnh báo đúng sẽ giúp người dân tiết kiệm được tiền của và công sức, thay vì cung tiến xong lại bị dỡ bỏ rất lãng phí như việc ở chùa Trung Kính Thượng nêu trên.
Người Việt Nam có hình tượng sư tử đá của riêng mình
Làm gì để người dân hiểu và không tiêu tốn tiền bạc cho việc cung tiến sư tử đá kiểu Trung Quốc không phù hợp với văn hóa thờ tự Việt?. Đó là câu hỏi mà Pháp luật Việt Nam đã đặt ra với Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu - Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu khẳng định, một mình Giáo hội Phật giáo khó có thể thay đổi được “làn sóng cung tiến” sư tử đá nếu không có sự chung tay của nhiều bên và phải làm từ gốc.
“Có thể lấy việc đốt vàng mã ra làm ví dụ, nhà Phật không có lệ đốt vàng mã và Nhà nước cũng có chủ trương hạn chế dần vì đây là việc làm mê tín, tiêu tốn tiền của. Thế nhưng, nói cấm, nói hạn chế mà chỉ làm ở phần ngọn thì không được. Người sản xuất vàng mã vẫn sản xuất thì khắc sẽ có người mua, người dùng. Tương tự như vậy, các cơ sở sản xuất đá mỹ nghệ vẫn sản xuất đều đặn ra sư tử đá đủ kiểu mà không có sự lên tiếng. định hướng của cơ quan chức năng cho vấn đề hình mẫu thì chắc chắn sư tử đá kiểu Trung Quốc vẫn sẽ đến được với người có nhu cầu”, HT.Thích Thanh Nhiễu phân tích.
Theo HT. Thích Thanh Nhiễu, đất nước Việt Nam có thời gian dài Bắc thuộc nhưng lịch sử đã chứng minh dù có bị áp đặt hay tự nguyện trong giao thoa văn hóa thì người Việt vẫn luôn chế tác ra những biểu tượng mang hồn cốt, tình cảm của dân tộc mình.
Bằng chứng là sư tử đá nhập vào Việt Nam theo xu hướng của Ấn Độ với ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh Phật giáo. Qua thời gian, sư tử đá đã tồn tại, phát triển theo truyền thống văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam đã có hình tượng sư tử đá của riêng mình.
Điển hình là sư tử đá ở chùa Bà Tấm (Gia Lâm, Hà Nội), chùa Phật Tích (Bắc Ninh)… rất đẹp. Vậy mà không hiểu sao, chỉ thời gian gần đây, do theo phong trào, thiếu thông tin hay vì một nguyên do nào khác mà những con sư tử lạ lẫm lại có thể chễm chệ ở những nơi chốn tôn nghiêm như đền, chùa Việt Nam?.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đang rất quan tâm đến vấn đề này và có chủ trương tuyên truyền sâu rộng tới các Tỉnh, Thành, Huyện hội để đến được với sư trụ trì các chùa trên cả nước. Tuy nhiên, theo HT.Thích Thanh Nhiễu, chỉ mình Giáo hội tuyên truyền trong nội bộ chưa đủ mà phải tuyên truyền rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng để mọi người dân, Phật tử, những người chế tác sư tử đá… đều biết và nhận thức được.
“Tôi mong rằng ngành Văn hóa vào cuộc nhắc nhở theo ngành dọc của mình để định hướng việc sản xuất, điêu khắc theo mẫu mã phù hợp, cơ quan quản lý nhà nước cao nhất về tôn giáo cũng lưu ý tới các đơn vị của mình tại tỉnh, thành để nhắc nhở… Có sự tuyên truyền hợp nhất của nhiều bên như vậy thì mới mong thay đổi được vấn đề sư tử đá kiểu Trung Quốc hiện diện ở nơi thờ tự Việt Nam”, HT.Thích Thanh Nhiễu nhấn mạnh.
Định hướng để giúp người sản xuất sư tử đá biết phân biệt
Nếu sư tử đá Trung Quốc có tư thế nổi bật là to lớn thể hiện sự dữ dội, đe dọa, với tạo hình sức mạnh gân guốc thì sư tử đá ở Việt Nam thể hiện cho sức mạnh tinh tế không có tính chất đe dọa với tạo hình rất nuột nà và tinh xảo.
Trả lời báo giới, ông Lê Như Tiến - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cho rằng cần có hướng dẫn, định hướng cụ thể cho các nghệ nhân, thợ thủ công, những người đang trực tiếp sản xuất những sản phẩm sư tử đá ngoại lai hiểu và phân biệt được đâu là sư tử đá Trung Quốc linh vật canh mộ và đâu là sư tử đá Việt Nam biểu trưng cho sức mạnh Phật giáo.