Bác sĩ Bùi Quang Lộc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai, cho biết tụy là một cơ quan nằm sau phúc mạc, trong ổ bụng, trước động mạch chủ bụng, tĩnh mạch chủ dưới và phía sau dạ dày. Tụy có chức năng nội tiết, tiết ra insuline, glucagon để ổn định đường huyết và chức năng ngoại tiết (tức là tiết ra các enzyme đổ vào ống tiêu hoá để tiêu hoá thức ăn).
Ung thư tụy là bệnh lý ác tính của các tế bào ở tụy, thường gặp ở vị trí đầu tụy và phổ hiến hơn ở nam giới. Đây là một trong những bệnh có tiên lượng xấu, chỉ khoảng 10% người bệnh ở tất cả các giai đoạn sống được đến 5 năm. Giai đoạn muộn chỉ có 5% bệnh nhân sống được đến 5 năm. Khoảng 90% ung thư tụy là loại ung thư biểu mô tuyến, 10% còn lại thường hiếm gặp như u thần kinh nội tiết, ung thư biểu mô tuyến nang, ung thư biểu mô tuyến vảy,...
Thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, ung thư tụy đứng thứ 14 về tỷ lệ mắc (458.918 ca một năm), tuy nhiên xếp thứ 7 về tỷ lệ tử vong (432.242 ca tử vong một năm). Tại Mỹ, chỉ 10% bệnh nhân ung thư tụy được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, trong khi đó 53% bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn 4 khi đã có di căn xa.
Thống kê của Tổ chức Ghi nhận Ung thư toàn cầu (GLOBOCAN) ước tính, năm 2018, Việt Nam có hơn 1.000 người mắc mới ung thư tụy và gần 900 trường hợp tử vong vì bệnh này. Tại Bệnh viện Bạch Mai, mỗi năm có gần 100 bệnh nhân ung thư tuyến tụy được chẩn đoán và điều trị.
Triệu chứng ung thư tụy giai đoạn sớm thường rất mơ hồ, không biểu hiện triệu chứng đặc hiệu. Có thể ban đầu chỉ là chán ăn, mệt mỏi, gầy sút cân, thường gặp nhất của bệnh ung thư tụy là người bệnh bị vàng da, đau bụng, gầy sút cân.
Tùy thuộc ví trí u có thể có biểu hiện vàng da, vàng mắt, nước tiểu đỏ như nước vối, phân có thể bạc màu, ngứa trên da khi các khối u gây chèn ép đường bài xuất của dịch mật. Người bệnh có thể biểu hiện đau bụng dữ dội vùng cột sống thắt lưng. Ngoài ra có thể biểu hiện các triệu chứng khác như viêm tụy, đi ngoài phân lỏng,...
Theo bác sĩ Lộc, ung thư tụy hay gặp ở những người có yếu tố nguy cơ gây bệnh như hút thuốc lá, thuốc lào; đái tháo đường, béo phì, viêm tụy mạn, gia đình có tiền sử như mang gene đột biến BRCA, CDKN2A, bệnh Peutz-Jeghers, hội chứng Lynch, bệnh von Hippel-Lindau.
Để chẩn đoán bệnh, các bác sĩ sẽ dựa vào các triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng như siêu âm ổ bụng, chụp cắt lớp vi tính ổ bụng, cộng hưởng từ, siêu âm nội soi, PET/CT..., trong đó xét nghiệm mô bệnh học thông qua sinh thiết hoặc phẫu thuật lấy u tụy là quan trọng nhất.
Đối với bệnh ung thư biểu mô tuyến của tụy, tùy thuộc giai đoạn bệnh, thể trạng người bệnh mà phương pháp điều trị khác nhau. Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản và triệt căn. Tuy nhiên chỉ khoảng 50-60% người bệnh khi đến viện còn chỉ định phẫu thuật. Xạ trị và hóa trị là các phương pháp điều trị khi bệnh ở giai đoạn không thể phẫu thuật được. Giai đoạn muộn thì hóa trị chủ đạo, cân nhắc xạ trị tùy trường hợp cụ thể, kết hợp các thuốc điều trị đích khi có chỉ định.
Bệnh có thể phát hiện thông qua khám sức khỏe định kỳ, đặc biệt các bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ.
Để phòng ngừa bệnh ung thư tụy, bác sĩ khuyến cáo loại bỏ các yếu tố nguy cơ như giảm hút thuốc lá, giảm cân, tránh béo phì. Kiểm soát các bệnh lý như đái tháo đường, viêm tụy mạn. Kiểm tra sức khỏe định kỳ, đặc biệt các trường hợp có tiền sử gia đình hoặc mang các gene đột biến để có phương pháp điều trị sớm, kéo dài thời gian sống cho người bệnh.
Nguồn tin: vnexpress.net
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự