Vì “thực hành” tự do khỏi những hệ thống quy luật, người
học có phạm vi lớn hơn và có thể được hưởng và hiểu rõ giá trị của cả nền học vấn
nổi và việc “thực hành” trong đời sống hàng ngày. Một người chỉ bị lôi kéo một
cách cách mê mờ theo con đường học vấn nổi hay sách vở đánh mất một nửa còn lại.
Kết quả là sự học của người đó chỉ hoàn tất năm mươi phần trăm.
Có nhiều bài viết và sách về Phật giáo được xuất
bản trong những năm gần đây, nhưng những bài đề cập đến quan điểm giáo dục của
Phật giáo thì đúng là hiếm hoi. Trong bài nầy, tôi muốn trình bày về cái thấy của
Thiền đối với nền giáo dục hiện đại. Giáo dục Phật giáo có một lịch sử dài lâu
và nhiều phức tạp.
Trong những thế kỷ đầu (400 trước Tây lịch – 800 sau
Tây lịch), các tu viện Phật giáo ở Ấn độ và Trung hoa họat động như những trung
tâm giáo dục ở đó giới luật, kinh điển và những môn khác được giảng dạy. Nhiều
người, nam cũng như nữ, đã được Tăng già cung cấp sự giáo dục, đời sống an toàn
và phẩm giá. Tâm linh và đời sống mô phạm luôn luôn được kết hợp trong nền giáo
dục Phật giáo.
Nền giáo dục hiện đại đã trở thành một chương trình dạy
nghề để nâng cao lợi ích về tài chánh. Chủ nghĩa tư bản, khoa học và kỹ thuật
đã tạo ra một cái nhìn mới về thế giới; huấn luyện nghề nghiệp trở thành chủ yếu
cho cuộc sống của một người hơn là việc rèn luyện tinh thần.
Ngày nay, hầu hết sinh viên đều quan tâm đến việc tìm
kiếm sự ổn định tài chánh và thu hoạch vật chất. Ngược lại với khuynh hướng nầy,
giáo dục Thiền khuyến khích người học tìm kiếm sự ổn định tinh thần. Vì Phật
tánh là khuynh hướng tự nhiên của con người, giáo dục Thiền hướng dẫn người học
hiểu được những khúc khuỷu của cuộc sống, đưa họ trở về với con người biết lắng
nghe, có tâm từ bi, thông cảm và sống một đời sống quân bình.
I. Giáo Dục
Trong Tu Viện
Lịch sử giáo dục đã có từ lâu và phức tạp.
Chẳng hạn ở các nước Ai cập và Ấn độ cổ, giáo dục chính yếu nhấn mạnh vào đạo đức,
thiên văn và kiến thức về tôn giáo. Giáo dục thời đó chỉ giới hạn cho vua chúa,
những người cầm quyền, chiến sĩ và tu sĩ. Trong thực tế, chỉ những người trong
giới thống trị mới được tham dự vào nền giáo dục.
Dần dần việc giáo dục thay đổi ở châu Á và châu Âu khi
nhiều người hơn, gồm cả những thường dân, được tham tham dự vào nền giáo dục. Ở
Ấn độ, ngay cả những người không được chạm đến (tiện dân - giai cấp thấp nhất sống
ngoài lề xã hội) và nữ giới cũng được cho phép gia nhập Tăng đoàn Phật giáo và
đuợc cho cơ hội học tập, và nhiều người trong giai cấp bị áp bức tìm thấy sự an
toàn trong Tăng đoàn.
Lần đầu tiên vào khoảng thế kỷ thứ tư trước Tây lịch,
người Phật tử thách thức hệ thống giai cấp cứng nhắc của xã hội Ấn độ khi các
tu viện mọc lên nhiều nơi trên đất nước nầy. Tu viện cung ứng một đời sống cộng
đồng trong đó tăng và ni học hỏi về giới luật, và được dạy kinh điển truyền miệng
từ các vị thầy được gọi là acarya.
Khi Phật giáo trở nên phổ cập và được chấp nhận, số lượng
tu viện cũng tăng lên. Những trường đại học Phật giáo nỗi tiếng nhất là Nalanda
và Valabhi ở miền Đông và miền Tây Ấn độ. Các trường đại học nầy và những tu viện
khác được hộ trì bởi những thương gia giàu có và sự trợ cấp của hoàng gia.
Nalanda lên đến tột đỉnh huy hoàng vào thế kỷ thứ bảy. Ngài Huyền Tráng viếng Ấn
độ từ năm 626 đến năm 646 và học tại Nalanada ghi lại rằng ở đại học Nalanda, số
giảng sư là 1,500 vị và số học viên là 10,000.
Một vị tăng nổi danh khác của Trung hoa là ngài Pháp
Hiển viếng Ấn độ từ năm 671 đến năm 695 ghi lại rằng trong các tu viện, ngoài
việc học kinh điển, các môn như văn phạm tiếng Phạn, luận lý học Ấn độ, và siêu
hình học cũng được giảng dạy.
Ngoài ra, nghệ thuật Phật giáo và y học cũng là những
môn học chủ yếu trong chương trình giáo dục Phật giáo. Đến thế kỷ thứ bảy, đời
sống trong tu viện của chư tăng và ni biến đổi trở nên phức tạp đòi hỏi họ phải
phấn đấu một cách có sư phạm hơn. Có thể cho rằng “chủ nghĩa kinh viện” Phật
giáo bắt đầu ở thời kỳ nầy.
Các tu viện Phật giáo ở Trung hoa bắt đầu xuất hiện
vào thế kỷ thứ nhất khi Phật giáo được chấp nhận. Trung tâm Phật giáo nổi danh
là Lạc Dương được hình thành vào phần tư cuối thế kỷ thứ nhất. Vị tăng được biết
đến và được tôn kính nhiều nhất ở Lạc Dương là An Thế Cao. Ngài là người
Partian (một phần của
An Thế Cao đến Lạc Dương vào khoảng năm
148. Ngài dịch kinh, phần lớn là về Thiền như định tâm, thiền quán, phương pháp
điều khiển hơi thở sang Hán văn. Trong số những người ngoại quốc cộng sự với An
Thế Cao có ngài Chi Lâu Ca Sấm, một người gốc Seythian, đến lạc Dương vào khoảng
năm 167 và cũng là một nhân vật quan trọng. Khác với An Thế Cao, ngài Chi Lâu
Ca Sấm chuyên dịch các kinh về Bát nhã.
Giữa thế kỷ thứ nhất và thế kỷ thứ năm,
ở Trung hoa có một số tăng sĩ chủ yếu là dịch
kinh. Thêm vào đó, tăng sĩ Trung hoa có cơ hội học về Phệ đà, Thiên văn học
Ấn độ, Toán học, và những khoa học huyền bí từ những vị tăng ngoại quốc sống ở
Trung hoa. Ngài Cưu Ma La Thập (413) cũng đã đưa văn học Ấn độ vào Trung hoa.
Các tu viện tự điều hành như những viện đại học. Khi
gia nhập Tăng đoàn, tăng và ni được nhận một nền giáo dục ở nhiều mức độ từ thấp
đến cao, song song đó, họ thoát khỏi những bất công của xã hội và được xã hội
kính trọng. Tuy nhiên, giáo dục ở tu viện có mục đích cao cả hơn, đó là hướng dẫn
sự chứng nghiệm sâu nhất về ý nghĩa hiện hữu của con người. Mục đích chính của
giáo dục và thực hành Phật pháp là làm cho sự chứng ngộ trở thành hiện thật.
II.
Cái Nhìn Của Thiền Về Nền Giáo Dục Hiện Đại
a) Ý nghĩa của giáo dục trong Thiền
Một cách tổng quát, giáo dục có hai hình thức: giáo dục
nổi được dạy trong các trường và giáo dục ngầm. Giáo dục ngầm có nhiều hình thức.
Đọc thơ trong một quán sách, tự học một ngôn ngữ, hội nghị chuyên đề trong sở
làm là một số ví dụ về nền giáo dục ngầm, được thực hiện để đáp ứng sở thích và
nhu cầu cá nhân. Cái đẹp của nền học vấn ngầm là nó chảy cùng đời sống của một
người.
Điều kiện của hệ thống giáo dục hiện đại đặc biệt khác
với những thế kỷ trước. Giáo dục nổi trong thời hiện đại là một kỹ nghệ tỷ đô.
Sách, học phí, và nhiều loại kiểm tra, tất cả đều tốn tiền. Ngày nay, sinh viên
vào học ở đại học chủ yếu là tìm cái lợi về tài chánh và địa vị xã hội mà việc
học đem lại.
Quan điểm đó của người học được chấp nhận như là một việc tự nhiên
khi mà chủ nghĩa tư bản, khoa học, và kỹ thuật bắt đầu tạo nên một trật tự mới
của thế giới; có nghĩa là sự huấn luyện nghề nghiệp trở thành thiết yếu cho đời
sống của một người hơn là nhu cầu về tinh thần. Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ xảy ra
vào thế kỷ thứ mười chín đã thay đổi mục đích của giáo dục trên toàn thế giới.
Vì cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tạo ra nhiều lãnh vực nghề
nghiệp, số người cần huấn luyện về nghề nghiệp nhiều hơn. Mục đích việc giáo dục
ở trường vì vậy buộc phải sửa đổi để phù hợp với nhu cầu. Trước khi có cuộc
Cách Mạng Kỹ Nghệ, quan tâm của giáo dục là học về nhân văn, nhưng sau cuộc
Cách Mạng Kỹ Nghệ, những viện đào tạo về khoa học trở thành nữ hoàng của giáo dục.
Kết quả là hệ thống giáo dục hiện đại bị ảnh hưởng lớn lao bởi những tác nhân
kinh tế và kỹ thuật, gây khó khăn cho những người tập trung vào mặt nhân văn của
nền giáo dục.
Không nghi ngờ rằng nền giáo dục nổi đã trở
thành phương tiện để bảo đảm điều kiện tài chánh. Nếu sự ổn định tài chánh
không được bảo đảm, con người hiện đại bị buộc phải sống trong giai tầng thấp của
xã hội. Vì vậy, để bảo đảm một đời sống vật chất, người ta phải phấn đấu ở nhà
trường và nơi làm việc.
Người ta phải làm việc siêng năng hơn và nhiều giờ
hơn, buộc phải dấng thân vào những xảo thuật để giữ được việc làm. Tuy nhiên,
con người càng phấn đấu cho của cải vật chất, thì càng có ít thì giờ cho bản
thân; và kết quả là con người đánh mất cơ hội phát triển nội tâm, nền tảng của
đức từ bi, sự hiểu biết và lòng thương yêu.
Dưới con mắt Thiền, người sinh viên ngày nay là chuyên
viên trong việc tìm thấy lỗi lầm của người khác và của xã hội, nhưng thất bại
trong việc soi rọi chính mình. Hệ thống giáo dục hiện đại thất bại trong việc
giáo dục sinh viên trở nên những con người có cảm xúc, biết chia sẻ, và điềm đạm.
Kết quả là nền giáo dục hiện đại đã chỉ trở thành một tiến trình, thay vì là sự
chuyển hóa tính nhân bản của một con người.
Ngài Lâm Tế (viên tịch năm 866), một trong những Thiền
sư nổi bậc vào thời Đường có lời khuyên về một sự giáo dục lý tưởng như sau.
Ngài nói: “Người học không để ý đến lỗi làm của kẻ khác; người đó tha thiết tìm
cầu kiến giải bên trong. Khi hoàn toàn rõ ràng về kiến giải chân thật, thế là
xong việc.”
Điều ngài Lâm Tế dạy là người học phải không chỉ trích
những điều kiện ngoài đời, cũng không phê bình những khuyết điểm của người
khác. Ngài Lâm Tế miêu tả một cách rõ ràng tư thế của Thiền trong việc giáo dục.
Rèn luyện có nghĩa là tìm kiếm cái thấy chân thật không phân biệt giữa thất bại
và thành công, giàu và nghèo, đúng và sai. Do đó trong Thiền, chữ giáo dục nên
được hiểu là tìm kiếm Tâm không phân biệt.
Tìm kiếm Tâm không phân biệt là một hình thức
giáo dục Thiền. Trong Thiền, công án có thể được dùng để dạy người học tìm thấy
Tâm. Tuy nhiên, công án không phải là phương pháp giáo dục thông thường. Công
án là một dụng cụ để khơi dậy cái thấy không dựa trên lý lẽ, ý niệm và ngôn ngữ.
Từ Bồ Đề Đạt Ma về sau, môn đồ nhà Thiền được rèn luyện
không dựa vào ngôn ngữ và văn tự. Do đó, trong việc học Thiền, người học được dạy
bằng phương pháp không-dạy. Nói cách khác, đọc và suy nghĩ không được coi là
hình thức tốt nhất trong phương pháp giáo dục.
Dĩ nhiên điều đó không thực tế đối với hầu hết các người
thầy trong nền giáo dục hiện đại. Tuy nhiên, có một kích thước khác trong cách
giáo dục của Thiền, đó là từ mức độ không-dạy đưa đến phương pháp dạy bằng thân
giáo. Một ngày nọ, đức Phật ngồi xuống trước đại chúng, ngài không nói một lời,
chỉ đưa lên một đóa hoa.
Cử chỉ bí mật đó đại chúng hoàn toàn không hiểu. Chỉ
có một người là ngài Ma Ha Ca Diếp hiểu được ý của đức Phật, ngài không nói một
lời mà chỉ mỉm cười. Giáo lý vi tế và sâu xa của đức Phật không được bày tỏ bằng
ý niệm, cũng không được dạy bằng lời. Đó đơn giản chỉ là Đức Phật đã thực hiện
phương pháp không-dạy và dạy bằng thân giáo.
Điều đức Phật thực hiện không phải là một phương pháp
giáo dục không bình thường. Mọi người đều hiểu ý nghĩa câu “phải thực hành điều
giảng dạy,” hoặc “phải thực hành điều học được.” Phương pháp dạy đó là phương
pháp rất tự nhiên trong Thiền.
b) Thiền có thể giúp gì cho nền giáo dục hiện đại?
Các sử gia đồng ý rằng đời sống hiện đại
có nhịp độ nhanh hơn những thế kỷ trước. Mọi sự đều
đòi hỏi chuyển động nhanh; sự việc phải được thực hiện trong thời gian ngắn
nhất. Hầu hết không có người nào chạy xe trên xa lộ hay đường phố theo dõi giới
hạn vận tốc; mọi người đều muốn chạy nhanh hơn. Có một hệ thống giao hàng trong
đêm, và có một hệ thống ngân hàng cấp thời phục vụ 24 giờ một ngày. Một điện
thư có thể gởi đi trong một cái nháy mắt.
Những điều nầy rõ ràng là tiện nghi. Tuy nhiên, sự tiện
nghi không luôn luôn cung cấp cho con người hiện đại một đời sống thỏa mãn về
trí tuệ và tinh thần. Trong cuộc sống bận rộn, con người chạy theo hết sự việc
nầy đến sự việc khác, và thường xao lãng những mối tương quan con người. Đối với
đời sống chuyển động nhanh chóng hiện đại, Thiền khuyên chúng ta tập trung nhiều
hơn vào yếu tố con người của đời sống. Nói cách khác, con người nên tìm về với
nội tâm, thay vì cứ chạy đua theo các sự kiện và của cải vật chất.
Trong một ý nghĩa, tìm về với tâm có nghĩa
là tìm nhiều thời gian hơn cho chính mình, thay vì dấng thân vào một lối sống bận
rộn và tàn phá. Bằng cách cho phép mình có nhiều thời gian hơn, con người có thể
có được tâm thức yên tĩnh và an bình. Tâm thức an bình không giống như trạng
thái lười biếng hay bất quyết; tâm thức nầy không bị quấy rầy bởi môi trường
bên ngoài thường làm cho con người không chịu nỗi tính chất hổn độn và hung
hăng của đời sống hiện đại. Người có tâm thức an bình làm chủ được tinh thần của
mình. Người đó thấy được những bịnh hoạn của xã hội, không bị lôi kéo vào những
vấn đề của xã hội.
Nhiều vấn đề hiện nay cách nầy hay cách khác
có nguyên nhân từ việc có quá nhiều người tham gia vào quá nhiều
hoạt động. Khi tính kiêu căng và bản ngã được hòa trộn với nhiều hoạt động, một
tình trạng không thể điều khiển sẽ xảy ra. Hai mươi ba quốc gia nhúng tay vào
cuộc thế chiến thứ hai để giải quyết vấn đề bằng việc tiêu diệt lẫn nhau, và kết
quả là trên 53 triệu người bị giết chết. Thiền Phật giáo đưa ra một giải pháp
cho sự điên rồ của thời hiện đại.
Giải pháp đó là trở nên quan tâm và có chọn lựa trong
những sinh hoạt hàng ngày. Bằng cách nầy, con người có thể tìm thấy nhiều thời
gian hơn cho việc tự vấn và suy nghiệm. Thiền Phật giáo biết rằng bằng cách hiểu
thấu những khúc khuỷu của cuộc sống không đoán trước được, con người sẽ có cơ hội
tìm thấy Tâm của chính mình, cũng là Tâm Phật.
Tâm, hay Tâm Phật, không phải là cái tâm đặc
biệt, nhưng nó có ảnh hưởng đặc biệt làm cho một người nhận ra
sự quan trọng của mỗi sự vật hiện hữu và mối tương quan của chúng. Ý thức về sự
tương liên giúp con người hóa giải sự ganh ghét, bất công, kiêu căng, thất vọng,
lo âu và niềm vui vào một trạng thái cân bằng, đưa con người nhận ra và sống
trong cảnh giới hoàn toàn hòa điệu của cuộc sống. Bàng Uẩn (740-808) trình bày
rõ ràng cốt tủy của giáo dục Thiền trong bài kệ sau đây:
Việc ngày không gì khác
Tự nhiên hòa hợp cùng
Không có gì lấy, bỏ
Chốn chốn mặc thong dong
Chẳng kêu ca tím đỏ
Gò núi mảy bụi không
Bửa củi và gánh nước
Diệu dụng với thần thông.
"Nhật dụng sự vô biệt
Duy ngô tự ngẫu hài
Đầu đầu phi thủ xả
Xứ xứ một trương quai
Khâu san tuyệt điểm ai
Thần thông tịnh diệu dụng
Vận thủy dữ bàn sài."
Cư sĩ Bàng Uẩn sống trong đời sống thế tục
giống như tất cả mọi người, nhưng về những năm cuối đời, một ngày nọ ông chất tất
cả tiền nong của cải lên một chiếc ghe và đem đổ xuông sông, làm như vậy để giải
thoát ông ra khỏi của cải vật chất. Bàng Uẩn không chỉ tống khứ của cải vật chất,
ông còn dửng dưng đối với việc người đời xét đoán về ông.
Cái ngã bên trong hấp thu một cách thành tựu cái hiện
hữu bên ngoài. Tuy nhiên, Bàng Uẩn không từ bỏ đời sống. Cuộc sống của ông đơn
giản hơn, và ông thực hiện những công việc căn bản cho cuộc sống con người, đồng
lúc ông sống một đời sống giới luật, đẹp và cao cả.
Sự không bám víu vào của cải vật chất của Bàng Uẩn đối
với con người hiện đại có vẻ cực đoan, và cách sống đời sống
tâm linh của ông có thể không thực tiễn đối với người thời nay. Giải pháp là
tìm một “con đường trung đạo” giữa đời sống vật chất quá đáng và loại đời sống
đầy cảm hứng của Bàng Uẩn.
Cuộc sống của ông không nên được hiểu lầm là một đời sống
không sản xuất; ông nói: “Những sinh hoạt hàng ngày của tôi không có gì khác
thường.” Thật tế đời sống của ông không có gì khác với đời sống của những người
khác. Điều Bàng Uẩn làm và điều những người khác làm nền tảng giống nhau, chỉ
trừ việc Bàng Uẩn thì không bám víu, không cắt đứt sự kết nối với sự vật xung
quanh, trong khi những người khác thì bám víu vào sự vật và kết nối một cách cạn
cợt.
III. Kết Luận
Thiền Phật Giáo nhận thấy sự cần thiết của một nền
giáo dục nổi. Chúng ta không nên quên rằng trong những thế kỷ trước, tăng sĩ dịch
và học hỏi kinh điển, chư tăng và ni tiếp nhận nền giáo dục tôn giáo đề ra một
cách nghiêm khắc theo giới luật. Kết quả của việc đào luyện tôn giáo đó không
tránh tạo ra một loại địa vị trong xã hội, cũng như hầu hết sinh viên ngày nay
muốn có sự ổn định tài chánh và địa vị xã hội bằng việc học.
Nhưng Thiền Phật Giáo không cảm thấy e thẹn khi chỉ ra
kết quả bịnh hoạn mà hệ thống giáo dục hiện đại tạo ra. Giáo dục đã trở thành
cuộc đua tranh quá mức, và giáo dục làm cho người học trở thành những con người
lấy mình làm trung tâm và tranh công, những người thất bại trong việc hiểu được
thực chất của con người.
Những thế kỷ trước, những tu viện ở Ấn độ và Trung hoa
cung cấp cho người học sự hướng dẫn tâm linh được coi là nền tảng của việc giáo
dục; trái lại, những đại học ngày nay đặt trọng tâm vào việc huấn luyện nghề
nghiệp hơn là giáo dục về tinh thần. Vì vậy, người hiện đại có khuynh hướng
nhìn vấn đề tinh thần qua con mắt vật chất, ví dụ khi người ta hỏi “biên lai
đóng góp từ thiện của tôi có được trừ vào tiền thuế hay không?” v.v..
Thật dễ hiểu lý do vì sao rất nhiều người ngày nay
phàn nàn về mọi chuyện và đánh mất sợi dây liên lạc với thế giới tinh thần. Mục
tiêu của giáo dục Thiền Phật giáo là kết nối con người trong toàn thế giới.
Con
đường để làm hòa điệu mọi người với thế giới là khuyến khích mọi chúng sanh tìm
thấy Tâm mình. Người học được khuyến khích học về ý niệm không-hai của Phật
giáo; giàu và nghèo, có học và thất học, vui và buồn, thành công và thất bại là
những mặt khác nhau của chỉ một đồng xu. Hiểu thấu tinh thần không-hai, con người
có thế tiến bước trên con đường tâm linh không điểm cuối. Do đó, học Thiền là
làm một sự chuyển hóa cho cả một đời người.
Kết quả của việc học Thiền là một người có học
biểu lộ tâm từ bi ra khỏi giới hạn bình thường; một người có học là một người
có tâm hồn rộng mở không giới hạn, và sự nhún nhường không gì sánh.
Những đức
tính nầy sẽ đến bất ngờ khi một người tìm thấy Tâm của mình, hay Tâm Phật. Như
vậy, rõ ràng trong giáo dục Thiền, tiếp nhận nhiều dữ kiện hơn hay chỉ học theo
qui ước không được coi là một lối giáo dục tốt.
Giáo dục xấu đưa đến hậu quả là
sản sinh ra một con người coi trọng bản thân, có cái nhìn cứng nhắc đối với người
khác. Đọc, viết và kiến thức qui ước là cần thiết, nhưng “gánh nước và bửa củi”
như Bàng Uẩn cũng tốt. Nói cách khác, đời sống của một học giả và đời sống của
một người tài xế xe búyt đều có ý nghĩa và thiết yếu ngang nhau cho tất cả
chúng sanh.
Nền giáo dục nổi có tính chất cứng nhắc, trong khi nền
giáo dục ngầm không có đường lối cố định. Với Thiền Phật giáo, nền giáo dục ngầm
hay “thực hành,” không phải là thấp kém hơn nền giáo dục nổi. Vì “thực hành” tự
do khỏi những hệ thống quy luật, người học có phạm vi lớn hơn và có thể được hưởng
và hiểu rõ giá trị của cả nền học vấn nổi và việc “thực hành” trong đời sống
hàng ngày.
Một người chỉ bị lôi kéo một cách cách mê mờ theo con
đường học vấn nổi hay sách vở đánh mất một nửa còn lại. Kết quả là sự học của
người đó chỉ hoàn tất năm mươi phần trăm. Xin đừng coi những gợi ý nầy là những
lời phê phán; hãy coi đó là một sự khuyến khích việc thực hành và biết tôn vinh
những sự việc thông thường hàng ngày để hoàn tất năm mươi phần trăm bị khiếm
khuyết. Và như vậy, viêc học sẽ trở nên hoàn hảo hơn.
Nguồn tin: Zen Buddhist Perspectives on Modern Education - Thị Giới
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự