Ngay những triết gia quay quắt tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, sự hiện hữu của kiếp người cũng vẫn loay hoay với bao triết thuyết rồi đâu vào đó. Phải có một con đường khác. Phật khẳng định có con đường khác đó: "Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí…".
Đó chính là con đường hạnh phúc trải nghiệm của đức Phật,
với nụ cười tự tại trên môi, nhất quán, xuyên suốt 45 năm tận tụy sẻ chia cho mọi
người từ ngày thành đạo. Đó là con đường thực nghiệm, thể nghiệm, không lý thuyết
suông, không hý luận, được kiểm chứng và có tính phổ quát.
Những lời dạy cuối
cùng của Phật cùng các đệ tử cũng đã không quên nhắc lại "con đường độc nhất
đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh..." này, bởi sợ rằng sau này người ta lại
dễ rơi vào tranh luận, hý luận, mà quên thực hành, để đi vào trăm ngả thị phi.
Con đường đó chính là Thiền định và Thiền quán.
Thiền có lẽ đã có từ rất lâu đời. Có lẽ ngày xa xưa con
người tự dưng phát hiện ra những giây phút rơi vào trạng thái sảng khoái, siêu thoát
nào đó, một trạng thái "hỷ lạc" nào đó, nói không được, mà chỉ có thể
cảm nhận, trực nhận bởi chính bản thân mình, rồi tích lũy kinh nghiệm, truyền đạt
lại cho nhau bằng nhiều cách.
Chính đức Phật, trong khi tìm kiếm con đường giải thoát, tình cờ nhớ lại tuổi ấu thơ của mình có lần đã rơi vào trạng thái sơ thiền mà nhanh chóng phát hiện ra con đường thiền riêng của mình, con đường không những "diêt trừ khổ ưu" mà còn dẫn đến "thành tựu chánh trí", giải thoát rốt ráo.
Trước đó ngài đã từng rời bỏ những con đường thiền khác. Rõ ràng
thiền đã có từ xa xưa nhưng thiền Phật giáo có những sáng tạo riêng rất đáng
nghiên cứu và thực tập. Không phải vô cớ mà ngày nay các trung tâm y khoa lớn trên
thế giới đưa thiền vào giảng dạy như một liệu pháp hữu hiệu chữa trị nhiều thứ
bệnh thời đại.
Thế nhưng đọc cả chồng sách luận về thiền càng dễ tẩu hỏa
nhập ma, bởi có lẽ nó là cái gì đó "bất khả thuyết" và đặc biệt "bất
khả đắc" khi ta nóng lòng muốn "chộp" lấy nó!
Nói cho cùng, thiền có vẻ thật đơn giản mà không giản đơn chút nào. Nó như
thách thức những nhà triết học, các học giả, mà lại mỉm cười với anh hàng thịt,
người gánh rau, bởi nó đòi hỏi sự chuyên tâm thực hành, thể nghiệm trên chính bản
thân mình hơn là ngàn chương khảo luận.
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn
kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành
niệm (Kàyagatàsati), Nhập tức xuất tức niêm (ànàpànasati) với một động tác cốt
lõi: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra, thở vào dài thì biết thở
vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn... Tóm lại, quán sát hơi thở, hay đặt
chánh niệm vào hơi thở. Chỉ có vậy Mà vô vàn. Mà nói không được.
Dù gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen ( Nhật)... thì
cũng đều do dịch âm từ Dhyana (Sankrist) hay Jhanas (Pali). Theo ngữ nguyên thì
Jha là nhìn, là quán sát hay quan sát và Ana là thở, hơi thở, khí. Vậy, Jhanas
hay Dhyana chính là quán sát hơi thở. Đơn giản vậy mà không giản đơn chút nào Đức
Phật đã nhắc đi nhắc lại như là một chìa khóa căn bản.
Phải mở cái cửa này đã rồi
các cửa khác mới mở tiếp được.Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một việc
có vẻ rất giản đơn là quán sát hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ giác? Quán sát
hơi thở thì có gì hay?
Tại sao không quán sát các đối tượng khác? Thật ra thì
quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là "pháp". Nhưng quán
sát hơi thở thì có điều kiện dễ thấy "ngũ uẩn giai không" tức vô ngã
hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái.
Dĩ nhiên để thấy "vô ngã" thì phải từ
"ngã". Nên tốt nhất là chọn một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân
mình. Chẳng hạn như tâm mình, thân mình. Nhưng tâm thì nhảy nhót triền miên,
khó bắt dừng lại để quán sát; còn thân thì lục cục đi đứng nằm ngồi đâu có dễ
mà chăm chăm dòm ngó! Tim đập cũng lúc nhanh lúc chậm, nhưng khó thấy, khó can
thiệp.
Dạ dày thì làm việc âm thầm, ngoài ý muốn, khó quan sát. Các bộ phận
khác cũng vậy. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi
mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng thở. Đi đâu cũng thở. Quan sát nó thì
không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục lần.
Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại gắn với cảm xúc! Rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta "nín thở". Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Như vậy, thở gắn với tâm trạng, gắn với cảm xúc, thay đổi liên tục. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Quan sát hơi thở do vậy ta quan sát được cảm xúc, tâm trạng.
Nói khác đi, quan sát được cái tâm ta. Tâm quậy
phá, tâm lộn xộn, tâm an vui ta biết hết! Thở cũng lại gắn với hoạt động của cơ
bắp: khi mệt, ta mệt "bở hơi tai", muốn đứt hơi, muốn hết hơi! Lúc đó
ta chỉ mong được... xả hơi!
Do vậy mà quan sát hơi thở ta quan sát được cái
thân ta. Thân mệt, thân khỏe, thân an vui ta thấy biết hết! Rõ ràng chỉ có hơi
thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân và tâm ta. Không chỉ thế, thở còn
vừa là ý thức, vừa là vô thức. Lâu lâu muốn ngưng chơi một chút cũng được,
nhưng đến một lúc, nó tự động thở. Như không cần ta, như ở ngoài ta, như không
phải ta. Nói khác đi, quan sát thở, ta có dịp đào sâu xuống...vô thức. Chẳng hạn
thở gắn liền với sự sống chết.
Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt thở,
là ngừng thở. Mở mắt chào đời, thở vào; nhắm mắt lìa đời thở ra. Mỗi hơi thở
như một kiếp sống, một đợt sóng lăn tăn nối tiếp. Mỗi hơi thở vào ra trung bình
khoảng 5-10 giây.
Mỗi giây, trong cơ thể con người đã có hằng trăm triệu tế bào
hồng cầu bị hủy diệt và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản sinh. Thở có thể
làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hóa cảm xúc ta, cả hành vi ta. Nó tác động
hai chiều như một phản ứng hóa học! Đang giận, đang tức cành hông, mà kịp tập
trung quán sát hơi thở của mình thấy nó kỳ cục, tức cười, bèn thở chậm lại,
quên giận lúc nào không hay!
Quán sát hơi thở lôi kéo ta về hiện tại tức khắc,
điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói cách khác, ta có thể dùng hơi
thở làm trung gian để kiểm soát thân tâm ta, làm cho tâm yên ắng (an tịnh),
thân êm ắng nếu muốn!
Ta biết hô hấp không phải xảy ra ở phổi mà ở từng tế bào.
Cơ thể ta có hằng vạn tỷ tế bào. Hô hấp diễn ra trong từng tế bào, ở đó, các phản
ứng hóa học dùng oxy từ phổi đưa vào để tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động
và tồn tại.
Người lao động nặng cần năng lượng gấp ba bốn lần người bình thường, trong đó hoạt động cơ bắp đã chiếm hết một nửa. Riêng não bộ, với trọng lượng rất nhỏ bé, chỉ chiếm 2% thể trọng mà đã tiêu dùng đến 30% khối lượng oxy đưa vào cơ thể. Giận dữ, lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng lượng.
Cho nên những lúc
đó ta dễ cảm thấy kiệt sức, rã rời là vậy! Ngủ là cách giảm tiêu hao năng lượng,
nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải toàn
thân khi thức giấc?
Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể,
hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được
nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng
khoái đó xảy ra trên từng tế bào của cơ thể, một cảm giác lâng lâng dễ chịu
toàn thân của hành giả, phải chăng chính là trạng thái hỷ lạc (thiền duyệt)?
Khi thân thể đã hoàn toàn thư giãn, buông xả, thì có vẻ như chỉ còn phần "khí" vận hành. Khí đó từ bầu khí quyển, từ vũ trụ, từ thiên nhiên. Các sinh vật cùng chia sẻ một cách... bình đẳng, theo nhu cầu.
Ta
hút lấy oxy của không khí, lại tạo ra carbonic; trong khi cây cỏ hút carbonic lại
tạo ra oxy. Con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương... cũng phình ra xẹp vào như
vậy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi, không thêm bớt từ ngàn xưa. Nhưng chính
con người làm hại môi trường sống của mình, tiêu diệt cây xanh, đến nỗi phải
mua từng bình oxy mà hít?
Phổi ta hoạt động như cái piston để bơm khí vào ra. Áp
suất âm, khí được hút vào; áp suất dương, khí được đẩy ra, Có một thời điểm ngắn,
ở đó, áp suất cân bằng, không âm không dương, khí bên trong phổi và ngoài phổi
là một: kho trời chung mà vô tận của mình riêng (NCT).
Tự mỗi người phải thực hành và cảm nhận, tự thể nghiệm,
tự chứng nghiệm.
Nguồn tin: NXB Văn Nghệ
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự