Đoạn
trường ai cũng qua
Không cần một nền triết học cao siêu hay trí
tuệ của một tôn giáo uy tín, ai cũng có thể tự cảm nhận về khổ đau như một sự thật
luôn hiện hữu trong thế gian này. Đến nỗi người ta còn thốt lên rằng đời người
có khác gì một bản trường ca thống khổ đầy nước mắt.
Nhớ những lần nằm liệt trên giường bệnh, ăn uống
hay ngủ nghỉ đều khó khăn, cộng với sự đau nhức ở bộ phận nào đó trên cơ thể làm
ta rã rời và vô cùng mệt mỏi. Với những chứng bệnh không quá nặng và có cách điều
trị tốt thì cơ hội bình phục sẽ xảy ra nhanh, trong khi những kẻ xấu số phải
đón nhận chứng bệnh nan y nguy kịch, hay những người già phải sống chung với những
căn bệnh dai dẳng đến cuối đời thì mới thật chua xót.
Ngay cái già nua cũng đã đem tới nhiều khổ lụy.
Mỗi ngày nhìn thấy tuổi thanh xuân của mình phóng đi vội vã, nhường chỗ cho những
gì thuộc về úa tàn, lụn bại, ai mà chẳng nao lòng luyến tiếc. Càng cố gắng làm
thêm nhiều việc để người trẻ đừng coi thường thì ta càng bộc lộ sự xuống cấp của
mình.
Tuổi già rất dễ quên trước quên sau, có khi muốn gọi ngay tên một người để
chứng tỏ mình vẫn chưa quên người ấy, nhưng lục lọi cả giờ trong ký ức mà ta chẳng
tài nào nhớ nỗi. Những lúc ấy thật đáng giận.
Và rồi sự thật là ai cũng phải già, ai cũng
phải bệnh và ai cũng phải chết. Có thể nói tử biệt là nỗi đau thống thiết nhất của
nhân sinh. Cái khổ phải độc hành với con đường mịt mờ phía trước cũng chưa bằng
cái khổ phải bỏ lại những người thương yêu. Có nhiều cuộc phân kỳ không dự báo
trước do biến cố bất ngờ xảy ra, khiến không ai kịp nhìn thấy mặt nhau để nói lời
từ biệt mới thật sự là đoạn trường thương đau.
Đoạn trường có nghĩa là đứt ruột. Cái đau của
sự chia lìa giữa hai con người thương yêu nhau có khác gì cái đau của khúc ruột
bị cắt đứt làm đôi. Có lẽ vì thế mà người ta sắp sau nỗi khổ tử biệt chính là
niềm sầu sinh ly. Thương nhau mà không được sống bên nhau, kẻ chân trời người
góc bể, cũng là một khối sầu quá lớn.
Người ta đã viết không biết bao nhiêu bài thơ
hay những bản tình ca đẫm lệ để ta thán cho cái niềm đau này. Thậm chí có người
chỉ cần được sống bên người mình thương thêm một lần, một ngày hay vài phút
giây ngắn ngủi để rồi xa nhau mãi mãi thì cũng mãn nguyện, vì với họ sự sống biệt
ly đã là một sự chết rồi.
Nếu biệt ly đem tới cái đau day dứt cho những
người thương yêu nhau thì hội ngộ chung thuyền sẽ là nỗi khổ triền miên cho những
tâm hồn lạc lõng không hòa chung nhịp. Mỗi ngày phải đối diện, phải tiếp xúc với
người mà mình có biết bao điều ngăn cách và chán ghét thì có khác gì sống trong
hỏa ngục. Đôi khi vì lý do gì đó mà ta phải phục tùng mệnh lệnh, phải im lặng lắng
nghe những lời quở trách vô cớ, hoặc phải có trách nhiệm chăm sóc hay yêu thương
những kẻ ấy thì còn kinh khủng hơn cả sự đọa đày.
Chưa nói tới những biến động lớn lao về đời sống
vật chất như sự suy sụp đột ngột của kinh tế thị trường, sự lừa đảo trong hợp
tác làm ăn, hoặc bị chèn ép hoặc tước đoạt quyền lực, hoặc những tổn thất về danh
dự như sự xúc phạm, hủy nhục hay phản bội cũng có thể tạo nên những cân não nặng
nề.
Ta đã từng chứng kiến không ít kẻ kẹt vào danh lợi và ái tình mà đã trở
thành nạn nhân của những chứng bệnh tâm thần hay trầm cảm, thậm chí họ chọn
luôn giải pháp kết liễu cuộc đời mình để mong chấm dứt cơn khổ não.
Xem ra không có cái khổ nào nhỏ hơn cái khổ
nào, vì cái khổ nào cũng làm cho ta nhọc nhằn và cạn kiệt năng lượng. Và cũng không
cần chứng minh gì thêm nữa, tự thân ai cũng công nhận khổ đau là một sự thật
luôn hiện hữu và đeo bám thân phận mỗi con người. Dù cố gắng không nhìn bằng
con mắt bi quan thì ta cũng không thể nào phủ nhận, bởi không ít lần trong
thinh vắng ta đã kêu lên những tiếng thở dài: Đời quả là bể khổ!
Có lẽ vì sự thật đó quá rõ ràng và đáng sợ
nên người đời đã tìm cách quên đi, thậm chí không dám nhắc tới như một điều cấm
kỵ, hoặc cố gắng tìm kiếm những niềm vui thú để lấp vào. Nhưng rồi sự thật cũng
vẫn là sự thật, không thể nào che đậy mãi được. Một khi niềm đau nỗi khổ trào
lên tới đỉnh điểm, nó sẽ cuốn phăng tất cả những lớp vui thú mong manh tạm bợ để
nắm trọn quyền thống trị.
Như một sự an bài của tạo hóa, khổ đau từ bao
đời nay đã trở thành bản án vô hình mà bất kỳ ai đi ngang qua cõi đời này cũng không
tài nào thoát khỏi.
Khổ
đau hay bất như ý?
Có người rất thích ngắm tuyết rơi, họ có thể
đi hằng giờ dưới tuyết để lấy cảm hứng cho những ý thơ thầm kín, hay để tâm hồn
lắng đọng cho những suy nghiệm về bí ẩn của cuộc đời. Trong khi tuyết lại là mối
khổ tâm của rất nhiều người nơi bản xứ, vì nó gây trở ngại không ít cho những
người làm nông trại hay trong việc giao thông.
Người làm doanh nghiệp lớn thường tất bật suốt ngày với công việc, nên lúc nào họ cũng ước ao có được những ngày nghỉ ngơi trọn vẹn, không phải trả lời điện thoại, không phải đối đầu với khách hàng.
Đối với
họ được ngủ một giấc yên lành hay ngồi thật lâu để thưởng thức chén trà thơm với
những người bạn đã là một thiên đường rồi. Trong khi những người trẻ mới ra trường
lại mong muốn kiếm được thật nhiều việc, làm càng nhiều càng tốt, với họ ở
không là một sự nhàm chán và vô nghĩa.
Những kẻ đã nắm được nghĩa đẹp của tình yêu,
không để tình yêu giới hạn lại trong sự ưa thích mới lạ ở hình thức và trong sự
hưởng thụ đổi chác, biết cách xây dựng và bảo vệ cho nhau nên nhìn đâu cũng thấy
đáng yêu và tràn đầy sức sống. Trong khi lắm kẻ bước vào địa đàng tình ái bằng
đôi chân lóng ngóng, ngập tràn những khát khao nông nổi nên chẳng bao lâu họ đã
gục ngã rồi trở nên oán hận tình yêu, và kết luận yêu là khổ.
Đúng thực yêu là khổ, nhưng phần lớn những
cái khổ kia đều do chính ta tạo ra chứ chúng không phải là cái khổ bắt buộc phải
có trong bất cứ tình yêu nào. Mọi thứ khác trong cuộc sống cũng vậy, nhìn trong
chiều sâu của bản chất ta sẽ thấy chúng không hề được ghi chép sẵn tính chất khổ
đau, mà hầu hết nguyên do của mọi khổ đau chỉ tại vì chúng không làm thỏa đáng
hay trái nghịch với những mong đợi của ta mà thôi.
Ta ít khi nhìn vào những gì mình đang có như
những điều kiện hạnh phúc mà rất nhiều người mơ tưởng, vì khao khát được hoàn hảo
nên ta tự đặt cho mình những cái muốn rất kỳ lạ mà chính ta biết rõ là không thể
nào thực hiện được như: Ước gì ta cao 1 mét 7 thay vì chỉ có 1 mét 6.
Ước gì giọng
nói của ta được thanh thoát và truyền cảm. Ước gì ta có trí não tốt để học đâu
là nhớ đó. Ước gì gia đình ta thuộc tầng lớp trí thức hay quý tộc. Ước gì ta được
sinh ra ở một thành phố xinh đẹp hay một đất nước văn minh giàu có.
Ta luôn cho đó là những nguyện vọng rất chính
đáng vì người khác có được mà tại sao ta lại không. Ta cứ so sánh, cứ đòi hỏi mình
phải có đầy đủ những điều kiện tối ưu của kẻ khác. Càng kẹt vào những ước muốn
thì ta càng đánh mất những giá trị cao đẹp khác của chính mình rồi dần dần rơi
vào mặc cảm, tuyệt vọng và bế tắc. Chung quanh ta có rất đông người như vậy, họ
không thể hạnh phúc chỉ vì họ đang có một vài điều bất như ý.
Buồn cười hơn là ta thường có những phản ứng
khó chịu hoặc bức xúc vì những điều hết sức phi lý như: Tại sao trời lại mưa
vào ngày mình đi picnic vậy? Tại sao đường phố cứ kẹt xe vào những lúc mình gấp
gáp như thế này?
Tại sao bây giờ cái gì cũng tăng giá hết thì làm sao mà sống?
Tại sao mình phấn đấu không ngừng mà vẫn không giàu như người ta? Tại sao số
mình không được may mắn như hắn? Tại sao người ấy không chịu làm theo ý mình? Tại
sao mình nói dối chỉ có đôi lần mà người ấy lại không tin mình?
Những cái muốn hay không muốn của ta xuất
phát từ ý niệm thích hay không thích. Bởi trong ta có sẵn những tập tin do di truyền
hay học hỏi từ môi trường về những điều kiện đảm bảo an toàn và lợi ích cho bản
ngã. Cho nên tùy vào nhận thức nông cạn hay sâu sắc của mỗi cá thể mà bản năng
sinh tồn sẽ khác nhau và mức độ khổ đau cũng khác nhau.
Tại vì những cái thích sẽ thúc đẩy ta cố gắng
tìm cầu rồi bám víu, những cái ta không thích sẽ thúc đẩy ta cố gắng tránh né rồi
đuổi xua. Trong khi đời sống của bất cứ cá thể nào cũng phải chịu tác động qua
lại bởi một hay nhiều cá thể khác và cả sự vận hành của vũ trụ bao la kỳ bí này
nữa, thì làm sao ta có thể muốn mọi thứ theo ý của mình kia chứ?
Ngay chính tâm thức của ta, cái nhận xét, cái
quyết định và cái ước muốn của ta cũng có lúc vầy lúc khác. Có những cái ta đã từng
ước muốn sở hữu cho bằng được nhưng bây giờ ta lại mong cho nó biến đi càng sớm
càng tốt.
Có những cái ngày xưa ta ghét cay ghét đắng nhưng bây giờ ta lại yêu
thích. Có những điều ta chưa từng nghĩ ra nhưng bây giờ mới ý thức được. Giả sử
tất cả những ước muốn của ta từ thái quá, phi lý đến bất thường đều thành tựu hết
thì ta sẽ thành ra cái gì và xã hội này sẽ ra sao?
Cho dù những ước muốn được gọi là xứng đáng
nhất, căn bản nhất để tạo nên một đời sống hạnh phúc bình thường cũng đã là sai
rồi, nói chi đến những ước muốn chỉ để phục vụ cho lòng tham của mình. Vậy nên
chỉ có những điều bất như ý (discontent) của con người đã tạo ra những ngang
trái cho con người, chứ không hề có cái số phận hay định mệnh khổ đau, vì khổ
đau không phải là một sự thật tuyệt đối trên cõi đời này.
Gốc rễ
của khổ đau
Thử lấy một ví dụ về hoàn cảnh bất như ý như
bệnh tật mà phần lớn ai cũng công nhận là khổ, để ta xét nghiệm xem thật ra trong
đó có chứa đựng những nguyên nhân sâu xa nào.
Bệnh tật là điều không ai muốn vì nó luôn đem
tới sự đau nhức, khó chịu. Nhưng với một người có thái độ hợp tác với cơn bệnh,
chấp nhận nó là hệ quả tất yếu từ lối sống thiếu quan tâm hay thiếu phòng hộ sức
khỏe đúng mức, hoặc chấp nhận nó là sự thật hiển nhiên của quá trình lão hóa cơ
thể, thì ta sẽ không còn thái độ kháng cự nữa.
Nhưng bản năng của ta thường hay chống đối lại
điều gì mình không ưa thích. Ta không chấp nhận mình phải bệnh vì có bệnh là xấu,
là yếu đuối, là phải sống chung với những cảm giác khó chịu, là phải phiền người
chăm sóc, là phải nằm bệnh viện, là phải mất cảm hứng làm việc, là phải đình trệ
nhiều dự án, là phải tốn kém nhiều tiền bạc…
Như vậy nguyên nhân đầu tiên là do ý niệm sai
lầm rằng mình sẽ không bao giờ có bệnh hay chưa tới lúc phải bệnh, nên khi nó
xuất hiện đột ngột đã làm cho ta giật mình hoảng hốt. Trong đó có thái độ lo sợ
vì không biết chứng bệnh này có nguy hiểm không? Có phải là ung thư không? Có
phải do truyền nhiễm từ những người sống chung không? Có ảnh hưởng gì tới trí
nhớ hay khả năng sáng tạo nếu phải phẫu thuật không?
Cũng như có một kẻ xấu nào đó bắn vào ta một
mũi tên thì ta đau nhức lắm, liền ngay sau đó lại có một mũi tên khác bay tới
và cắm vào đúng vị trí của mũi tên thứ nhất thì cái đau nhức kia không phải
tăng lên gấp đôi, mà là gấp nhiều lần.
Mũi tên thứ hai mới đem tới khổ lụy thật
sự. Mũi tên thứ hai chính là trí tưởng tượng phong phú của ta. Do nội lực yếu
kém nên ta thường dựng lên trong tâm tưởng những hình ảnh rất sai lệch với sự
thật như để phòng thủ an toàn. Thực tế cho thấy người ta không dễ chết vì hoàn
cảnh mà lại chết vì vọng tưởng của chính mình. Đó là một loại tâm bệnh khá nặng.
Nguyên nhân thứ hai là thái độ phản ứng của ta. Ta không chấp nhận mình phải mắc chứng bệnh quái quỷ đó và không chấp nhận sự hành hạ của nó khiến ta mất hết năng lực để sinh hoạt như một người bình thường.
Cho nên ta tất tả tìm mọi cách để loại trừ nó càng sớm càng tốt. Nếu gặp phải
những chứng bệnh nặng hay loại mãn tính thì ta càng khó chấp nhận và thái độ
kháng cự sẽ càng quyết liệt hơn. Chính thái độ của ta đã làm phát sinh ra tâm bệnh,
mà tâm có liên quan mật thiết với thân, nên bệnh tình của ta càng trở nên trầm
trọng.
Thực ra bệnh chỉ là một cảm giác đau đớn, khó
chịu (unpleasant) chứ chưa hẳn là một cái khổ (suffering), vì không phải ai mắc
bệnh cũng khổ. Ta thường hay lầm lẫn giữa cái cực, cái đau với cái khổ.
Dĩ
nhiên sự xáo trộn trong cơ thể hay của hoàn cảnh dễ tạo nên áp lực và làm cho
ta đau nhức, nhưng nếu ta là một con người có luyện tập, am hiểu và điều phục
được cảm xúc của mình thì ta sẽ mau chóng bớt khổ, hoặc ít khổ, hoặc có thể đạt
tới mức không thấy khổ nữa mà chỉ thấy đơn thuần là một hoàn cảnh bất như ý
thôi.
Nghĩa là tùy vào nhận thức của mỗi người mà
cái khổ ấy có thể nhỏ hay lớn, và tùy vào khả năng hứng chịu của mỗi người mà cái
khổ ấy trở nên nhẹ hay nặng. Cái khổ của người này không nhất thiết giống hệt với
cái khổ của người kia.
Cho nên hoàn cảnh bất như ý chưa hẳn là nguyên nhân gây
ra khổ đau, mà chính cách nhìn nhận và khả năng tiếp nhận hoàn cảnh mới quyết định
cho khổ đau có mặt hay có mặt ở cung bậc nào.
Ta thường hay hỏi tại sao mình phải hứng chịu
quá nhiều khó khăn, nhưng mỗi khi đón nhận những điều kiện thuận lợi thì lại sung
sướng mỉm cười mà không hề truy cứu nguyên nhân từ đâu. Con người là vậy, chỉ
biết đòi hỏi sự hưởng thụ chứ không thấy được nguyên tắc sâu xa tạo nên sự cân
đối trong vũ trụ này là: có thăng phải có trầm, có được phải có mất, có thành
phải có bại, có hợp phải có tan.
Vậy muốn thăng, muốn được, muốn hợp hay muốn
thành lâu hơn thì ta phải học tập cách chuyển hóa mặt trái của nó và học tập kỹ
năng giữ gìn nó. Hơn nữa, ta là tác nhân chính gây ra mọi nghiệp lực của mình
thông qua tư duy, lời nói và hành động từ trong quá khứ. Đó là quy luật nhân quả
rất công bằng, có làm có chịu, mà ta không thể nào cầu nguyện hay ước muốn được.
Vậy nên thay vì ta tìm cách thay đổi hoàn cảnh
hay mong cầu một hoàn cảnh như ý thì ta hãy quay về điều chỉnh lại nhận thức của
mình về chính bản thân mình và về cuộc sống, cũng như nuôi dưỡng lại khả năng
chấp nhận những nghịch cảnh.
Bởi nhìn cho thấu đáo ta sẽ thấy thái độ yêu thích
có gốc rễ từ tâm tham, và thái độ không thích có gốc rễ từ tâm sân. Tâm tham và
tâm sân có gốc rễ từ tâm si mê, tâm chỉ muốn được thỏa mãn cảm xúc bản ngã, mà
không biết làm sao để tạo nên một đời sống bình an và hạnh phúc chân thật.
Lẽ dĩ nhiên là con người thì ai mà không có
tâm tham và tâm sân, nghĩa là vẫn phải gửi tâm mong cầu đến những gì mình thích
và khước từ những gì mình không thích. Tuy nhiên, nếu ta bớt đi những danh mục
thích hay không thích mà mình đã từng lưu trữ, nghĩa là ta tập chấp nhận và tùy
thuận vào cuộc sống nhiều hơn thì chắc chắn ta sẽ nhẹ nhàng lướt tới phía trước
như con thuyền vừa trút xuống những kiện hàng to tát.
Con người càng bớt đi những
đòi hỏi từ bên ngoài là con người có sức mạnh bên trong. Cuộc đời vẫn luôn mở rộng
lối đi cho những ai biết lùi lại một bước để nhường cho kẻ khác.
Như hạt bụi để khuyết nơi này thì nó sẽ làm
thừa chỗ khác, và rồi một cách tự nhiên hạt bụi khác sẽ đến lấp đầy chỗ này và chỗ
thừa kia sẽ tìm cách đẩy hạt khác đi. Vũ trụ tuy không ngừng biến dịch, nhưng
mãi mãi vẫn giữ thế quân bình trong bản thể.
Chỉ khi nào ta thấy mình cũng là hạt
bụi nhưng cũng là một bãi cát, hạt bụi nào cũng là ta và không hạt bụi nào mà
không phải là ta cả; thấy được dòng sinh mệnh bất tuyệt của mình luôn gắn liền
với mọi đối tượng, thì ta mới có thể rong chơi tự tại giữa cõi đời này theo
tinh thần nhân quả và nguyên tắc duyên sinh mà không còn vướng kẹt bãi cát đầy
hay bãi cát lở.
Đối
tác của hạnh phúc
Khi dầm mình giữa giá rét trời đông, ta luôn
mong ước sớm được về với căn nhà ấm áp, nhưng vừa ngồi xuống bên lò sưởi chưa được
bao lâu thì ta bỗng quên mất giây phút mầu nhiệm ấy, cứ loay hoay tìm việc để
làm, hoặc tranh thủ nghĩ tới những dự án.
Con người là vậy, rất mau chóng bình thường
hóa mọi thứ. Lúc chưa có thì khao khát, khi có rồi lại khinh lờn và muốn đi tìm
những thứ khác.
Sau những lần "chuộng mới nới cũ", tâm hồn luôn rơi
vào trạng thái trống rỗng thì ta mới biết mình đã dùng cảm xúc hời hợt để đón
nhận và giữ gìn hạnh phúc. Cho nên để giúp ta có ý thức và trân quý sâu sắc những
gì mình đang có thì chỉ còn cách đẩy ta ra ngoài giá rét một lần nữa cho đủ thấm.
Cũng như đã từng bị đói mới biết quý cái ăn
ngon, đã từng sống qua mùa tuyết lạnh mới quý chuộng ngày nắng ấm, đã từng bị bỏ
rơi mới quý trọng những ân tình nho nhỏ, đã từng bị chia lìa mới yêu quý những
giây phút đoàn viên, đã từng trải qua những mất mát tang thương mới thấy sự sống
mà mình đang có thật vô cùng quý giá.
Thế nên những điều kiện thuận lợi thường chỉ
làm lớn mạnh thêm bản năng hưởng thụ, còn những hoàn cảnh khắc nghiệt mới giúp con
người phát tiết hết tinh anh, bởi khả năng con người vốn rất vĩ đại, có thể bước
qua bất cứ hoàn cảnh trái ngang nào và có thể đạt tới tự do tuyệt đối. Cũng như
hoa mai và hoa đào phải trải qua một trận mùa đông giá rét thì mới có thể tung
cánh và tỏa hương thơm ngát trong những ngày nắng ấm đầu xuân.
Vì vậy ta đừng oán trách hay chống đối hoàn cảnh
vô thường, bởi nó sẽ vừa giúp ta luôn cảnh giác để đừng sống trong lãng quên, vừa
giúp ta không kẹt vào tham đắm mà mất nhiều năng lượng sống, và cũng vừa giúp
ta rèn luyện tính chịu đựng để ứng phó mọi hoàn cảnh. Huống chi vô thường đâu
chỉ làm cho được rồi mất, thành rồi bại, hợp rồi tan; mà chính nó đã giúp cho mất
rồi được, bại rồi thành và tan rồi hợp.
Hạnh phúc thiết lập trên những cái được, cái
thành, cái hợp thì chỉ có tính tạm thời, nghĩa là nó vẫn còn nằm trong mối đe dọa
của lưỡi gươm vô thường. Trải nghiệm từ cuộc sống ta sẽ tìm thấy được thứ hạnh phúc
khác vượt ra khỏi sự khống chế đó. Nó vẫn chấp nhận thăng trầm biến đổi theo lẽ
tự nhiên nhưng lại rất tự tại mà không hề thấy mất mát khổ đau. Nó chỉ đơn giản
được xây dựng bằng chất liệu của một nhận thức đúng đắn: không mong cầu, không
chống đối và một trái tim đủ lớn mạnh để chứa đựng.
Vì vậy cầu nguyện cho mình luôn được may mắn
không phải là một thái độ khôn ngoan, nên ta hãy cố gắng tập nở nụ cười thật tỉnh
táo để đón nhận bất kỳ nghịch cảnh nào đi tới. Sự thật ta cũng không thể nào đủ
sức để thay đổi mọi hoàn cảnh.
Tốt nhất hãy cho phép khổ đau bước vào cuộc đời
ta một cách tự nhiên, nếu đến trong khi ta còn rất trẻ thì càng tốt, vì chính
khổ đau sẽ trao cho ta một khả năng sống và chỉ cho ta bí mật của cuộc sống.
Vậy nên khổ đau là cần thiết, không có khổ
đau thì con người sẽ khó nhận biết cái gì là hạnh phúc. Nói một cách sâu sắc là
nếu không có khổ đau thì sẽ không có hạnh phúc, hay khổ đau chính là mặt khác của
hạnh phúc, hay khổ đau cũng chính là hạnh phúc.
Nói thì nói cho tận cùng như thế, chứ nhìn
vào thực tế bản thân thì ta phải đi từ nấc thang ban đầu, phải tập quan sát, thấu
hiểu và chấp nhận những phản ứng khó chịu hay khổ đau nhỏ bé nhất. Bởi lâu lâu
ta vẫn vùng vẫy, vẫn than trời trách đất, vẫn muốn buông xuôi tất cả và xách
gói ra đi để tìm một miền đất hứa, vì trái tim ta đã không thể ôm nổi những nghịch
cảnh quá lớn.
Dù vẫn còn lận đận trên con đường hạnh phúc,
nhưng ít ra ta đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn. Con đường ta đang đi là con
đường trở về chính trái tim ta để tìm hiểu, khám phá và chinh phục.
Vì chính
nơi trái tim ta có đầy đủ phẩm chất để tạo nên một đời sống hạnh phúc, và cũng
nơi ấy cũng luôn chứa đựng bóng dáng âm u của những phiền não. Biết cách xua
tan những đám mây u ám thì vầng trăng sáng trong sẽ hiện ra toàn vẹn, bởi dù
năm tháng có trôi mau nhưng vầng trăng xưa ấy vẫn chưa bao giờ lặn khuất.
Khổ đi
em vạn lần
Mới thấy
đời đáng sống
Như
đóa hoa chân thường
Nở
ngay giờ tuyệt vọng.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự