Đời hạnh phúc

Thứ sáu - 05/09/2014 09:45
Trong đời sống, muốn có được miếng cơm manh áo, mọi người đều phải bỏ nhiều công sức để suy nghĩ, làm việc.
Đời hạnh phúc
Nếu may mắn, các công việc đó là các công việc tốt lành, được xã hội công nhận, không vi phạm luật pháp thì rất tốt. Tuy nhiên, do hoàn cảnh đưa đẩy, một người muốn làm điều tốt, không muốn làm điều xấu nhiều khi vẫn bị phân vân nếu môi trường và điều kiện của công việc ép buộc họ phải làm điều xấu. Họ nên xử sự như thế nào? Nội dung chuyện tiền thân Tittira trong Kinh Tiểu bộ, tập VI, chuyện số 319, Chuyện chim đa đa nêu lên một trường hợp minh họa cho hoàn cảnh khó khăn ấy. Chuyện này do Bậc Đạo sư kể khi Ngài trú tại tu viện Badarika gần Kosambi. Chuyện kể về Trưởng lão Rahula. Bấy ...
 
Tấn Nghĩa

Trong đời sống, muốn có được miếng cơm manh áo, mọi người đều phải bỏ nhiều công sức để suy nghĩ, làm việc. Nếu may mắn, các công việc đó là các công việc tốt lành, được xã hội công nhận, không vi phạm luật pháp thì rất tốt. Tuy nhiên, do hoàn cảnh đưa đẩy, một người muốn làm điều tốt, không muốn làm điều xấu nhiều khi vẫn bị phân vân nếu môi trường và điều kiện của công việc ép buộc họ phải làm điều xấu. Họ nên xử sự như thế nào?

Nội dung chuyện tiền thân Tittira trong Kinh Tiểu bộ, tập VI, chuyện số 319, Chuyện chim đa đa nêu lên một trường hợp minh họa cho hoàn cảnh khó khăn ấy.

Chuyện này do Bậc Đạo sư kể khi Ngài trú tại tu viện Badarika gần Kosambi. Chuyện kể về Trưởng lão Rahula. Bấy giờ ở pháp đường, các Tỷ-kheo đang ca ngợi Tôn giả Rahula, bảo rằng Tôn giả rất cẩn trọng, tinh cần, nhẫn nhục. Bậc Đạo sư bước vào và khi nghe kể lại đề mục luận bàn của các Tỷ-kheo, Ngài dạy: “Không phải chỉ nay mà xưa kia cũng thế, Rahula cũng đã có được các đức tính này”. Đoạn Ngài kể cho họ nghe một chuyện tiền kiếp.

Ngài Rahula là con của Đức Phật và nổi tiếng là người có sự tu tập miên mật. Kinh Tăng chi (Chương Một pháp, Phẩm Một người) viết: “Trong các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, ưa thích học tập, tối thắng là Rahula”. Chuyện tiền thân Tipallathagami kể lại rằng, có lần để thử thách ngài Rahula, khi thấy Tôn giả Rahula từ xa đi đến, các Tỷ-kheo đã quăng cán chổi ra đường rồi hỏi lớn với nhau: “Này các hiền giả, ai quăng đồ rác này?” và có người trả lời: “Tôi thấy Rahula đi qua đường này”. Lúc đó ngài Rahula không phân trần, biện minh như thói thường mọi người vẫn làm; ngài lẳng lặng dọn chỗ rác ấy đi. Lần khác, vì tôn trọng điều luật mới đặt ra của Đức Phật về việc không cho người thọ đại giới ngủ chung với người chưa thọ đại giới, Rahula đã ra ngủ ở phòng vệ sinh. Câu chuyện Tittira được kể tiếp tục:

Ngày xưa, khi Bramadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài theo đuổi các học nghệ tại Takkasila rồi rời bỏ cuộc sống thế tục, sống khổ hạnh trong vùng Hy-mã-lạp-sơn và phát huy mọi khả năng trí tuệ. Ngài thọ hưởng hạnh phúc của thiền định, sống trong một khu rừng tịnh lạc. Sau đó, ngài có đến một ngôi làng để tìm muối và giấm. Mọi người khi trông thấy ngài đều thành tín đồ, họ dựng cho ngài một túp lều lá trong rừng và cung cấp cho ngài đủ các vật dụng cần thiết.

Bấy giờ một người bẫy chim trong làng ấy bắt được một con chim đa đa mồi, bỏ nó vào trong một cái lồng và luyện tập, săn sóc nó cẩn thận. Ông ta mang nó vào rừng cho nó kêu lên để nhử các con đa đa khác đến gần.
 
Con chim đa đa này là một con chim mồi. Nó được chăm sóc cẩn thận để phục vụ cho việc bẫy đa đa của chủ. Con chim mồi là loài bé nhỏ nên chẳng thể kháng cự gì người bẫy chim. Đây là trường hợp khó khăn của con đa đa mồi. Nhờ làm công cụ bẫy chim mà nó có miếng ăn, thức uống đầy đủ. Ngược lại, nó bị nhốt và bị sử dụng để mồi các con chim khác.

Con đa đa tự nghĩ: “Do ta mà đồng loại phải lâm vào cái chết. Về phần ta, đây là một hành vi ác độc”. Vì thế nó cứ lặng thinh không kêu nữa. Khi chủ thấy nó lặng thinh liền lấy một đoạn tre đập vào đầu nó. Con đa đa đau quá phải kêu lên. Thế là người bẫy chim cứ sinh sống bằng cách dùng nó để nhử các con đa đa khác.

Với con chim thì “quyền được sống” không rộng như con người. Nếu con người không muốn làm điều gì xấu thì họ có thể bỏ việc. Ở mức độ xấu hơn, trường hợp đã tự cam kết với người chủ hay đã vướng mắc với người chủ về quyền lợi của bản thân, họ có thể hủy bỏ cam kết hoặc từ chối quyền lợi bản thân. Con chim mồi thì không thể bỏ việc; nó cũng không thể từ chối vì bị đánh đau vào đầu. Với con người, ngay như đã cam kết với chủ và không thể từ chối, thì khi thực hiện hành vi xấu, con người cũng có thể tìm cách làm giảm nhẹ hậu quả của hành vi xấu ác. Người ta có thể thông cảm với người làm điều xấu một cách miễn cưỡng theo yêu cầu của chủ nhưng lại không thể thông cảm với người tích cực, hăng hái làm theo yêu cầu xấu của chủ. Con chim thì không thể tự làm giảm nhẹ hậu quả tiếng kêu của nó.

Và con đa đa lại nghĩ: “Ừ, thì dẫu cho chúng nó có chết đi, về phần ta, ta không hề có ý định xấu, nhưng những hậu quả xấu của hành động của ta có tác dụng vào ta không? Khi ta lặng thinh thì chúng không đến, khi ta kêu lên thì chúng đến. Và hễ con nào đến là bị người kia bắt và giết chết. Về phần ta, hành động như thế là có tội hay không có tội”. Từ đó, ý nghĩ độc nhất của con đa đa là: “Ai chính là kẻ có thể giải quyết mối nghi của ta”. Thế là nó cứ tìm kiếm khắp nơi một bậc trí giả để giải quyết mối nghi ấy.

Khi tham dự vào một điều có hại cho người khác, đặc biệt là sát sinh, thì thường mọi người đều có sự băn khoăn. Ngay cả những người xử tử tù nhân theo lệnh của tòa án cũng có những băn khoăn và ám ảnh. Việc điều trị tâm lý cho họ là việc quan trọng.

Một hôm người bẫy chim bẫy được một số đa đa đầy giỏ rồi đến chỗ căn lều của Bồ-tát mà xin một ngụm nước. Ông ta đặt lồng chim xuống bên cạnh Bồ-tát mà uống nước rồi nằm dưới đất mà ngủ. Thấy người ấy ngủ, con đa đa tự nghĩ: “Ta sẽ hỏi vị ẩn giả này về mối nghi của ta. Nếu người biết, người sẽ giải quyết nỗi khó khăn của ta”. Thế là nằm trong lồng, nó đọc lên đoạn thơ thứ nhất sau đây:

Đời hạnh phúc mỗi ngày tôi sống Đến cùng tôi đầy những thức ăn Nhưng tôi vướng mắc tệ tàn Tương lai tôi ấy số phần ra sao?

Con chim trình bày nỗi khó khăn của mình: sống sung sướng đầy đủ, không phải đi kiếm ăn vất vả như những con chim khác. Tuy nhiên lại bị vướng mắc quá lớn trong đời sống. Con chim chưa nói rõ mình bị vướng mắc gì. Bồ-tát đọc đoạn thơ thứ hai để giải quyết câu hỏi:

Nếu lòng chẳng tơ hào xấu ác, khiến bạn gây nên việc nhục hèn, do phần thụ động mà nên, bạn nào bị tội trói chuyên số phần.

Bồ-tát đã trả lời chung cho các thắc mắc loại đó. Nếu lòng chẳng “một chút xíu xấu ác” và không phải do mình chủ động mà bị bắt buộc phải làm thì những tội lỗi không trói buộc họ được. Tuy nhiên, việc không có“tơ hào xấu ác” là việc rất khó. Dân gian có câu: “Giấy rách phải giữ lấy lề”. Ngày xưa, để đóng sách người ta đục lỗ ở mép gáy rồi lấy dây xỏ vào để cột. Phần đó gọi là “lề”. Nếu “lề” bị hỏng thì toàn bộ cuốn sách sẽ bị xổ tung ra. Thường thường, “giấy rách” được giải thích là để ám chỉ hoàn cảnh khó khăn về vật chất, nghèo khổ. Tuy nhiên, theo Phật học thì nghèo khổ không phải là tình trạng “giấy rách”; chỉ khi nào làm những điều hại mình, hại người, hại cả hai thì mới gọi là tình trạng “giấy rách”. “Giữ lấy lề” cũng thường được hiểu theo nghĩa là giữ gia phong, lễ giáo, truyền thống, tự trọng, đạo đức…

Theo Phật học, “giữ lấy lề” chính là giữ những điều căn bản, không làm mất gốc rễ của mình. Kinh Tăng chi (Chương Bốn pháp, phẩm Diệu hạnh) viết: “Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không thông minh, không phải bậc chân nhân, tự mình xử sự như một kẻ mất gốc, không có sinh khí, có tội, bị các người có trí quở trách, và tạo nhiều vô phước. Thế nào là với bốn? Với thân làm ác, với lời nói ác, với ý nghĩ ác, với cái thấy sai lạc”. Trong bốn điều làm “đứt lề”, “mất gốc” này, điều quan trọng là người đã bị “giấy rách”có“chút xíu nào”chủ động thực hiện hay không. Nếu chỉ là do bị thụ động thì vẫn còn “giữ được lề”. Câu chuyện được kể tiếp tục.
Đa đa nghe thế liền đọc đoạn thơ thứ ba:
Chúng bảo rằng “họ hàng ta đấy!” Cả đám đông đổ lại trông vời
Phải chăng là tội của tôi
Khiến cho chúng chết? Xin người giải nghi.
Con đa đa bây giờ nói rõ nỗi băn khoăn của mình. Vì nó mà các con đa đa khác bị bắt.
Nghe thế, Bồ-tát đọc đoạn kệ thứ tư:
Nếu ác không ẩn trì lòng bạn Thì hành vi sẽ chẳng tội tình Kẻ nào thụ động phần mình
Thoát bao tội lỗi mà thành thong dong.

Nếu đa đa không cố ý kêu lên “nhử mồi” mà chỉ là do bị đánh thì không có tội lỗi. Con đa đa chỉ có tội khi nó tự nguyện“nhử mồi”, thấy thích thú trong việc“nhử mồi” hay tìm những cách hay ho để “nhử mồi” và để làm vừa lòng người bẫy chim. Trong những trường hợp đó thì“ác đã ẩn trì lòng bạn” và “giấy rách đã bị hư lề”.

Bậc Đại sĩ an ủi con chim đa đa như vậy. Và nhờ người, con chim không còn ray rứt ân hận nữa. Thế rồi, người bẫy chim thức dậy, chào Bồ-tát rồi xách lồng mà ra đi.
 
Bậc Đạo sư thuyết giảng xong, Ngài nhận diện tiền thân: “Bấy giờ Rahula là con đa đa, còn Ta đây là vị ẩn giả kia”.
 
Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 156
 Từ khóa: đời sống, suy nghĩ

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây