Vậy cổ nhân nhìn nhận như thế nào về đối nhân xử thế, thiện ác chính tà? Dưới đây là những câu nói và cách làm tiêu biểu mà cổ nhân xưa để lại.
Nguyên văn trong “Đạo Đức Kinh” có viết: “Tổn hữu dư nhi bổ bất túc, thiên chi đạo dã. Nhân chi đạo, tắc bất nhiên, tổn bất túc dĩ phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả”.
Tạm dịch:
Thiên đạo, là lấy chỗ dư thừa để bổ sung cho chỗ thiếu thốn; nhưng cách làm của con người trong thế tục lại là người nghèo khổ túng thiếu lại phải cung phụng người phú quý dư thừa. Ai có thể mang phần dư thừa của mình để cung phụng cho thiên hạ? Chỉ có thể là người có đạo.
Có chuyện kể rằng, Trung Thư Lệnh Bùi Giai năm nào cũng xin cầu viện Triệu Nhị Vương của nước Lương. Triệu Nhị Vương liền dùng tiền thu tô thuế, lấy ra mấy trăm vạn, ban cho Bùi Giai. Bùi Giai lại dùng số tiền này đi cứu tế tất cả những người nghèo khổ mà ông từng biết.
Có người mỉa mai Bùi Giai rằng: “Ngươi sao lại đến chỗ người khác (chỉ Triệu Nhị Vương, nước Lương) ăn xin tiền bạc mang về bố thí cho người nghèo như vậy?”
Bùi Giai nói: “Tôi lấy phần dư giả của họ mang về cứu tế cho những người cơm không đủ no, áo không đủ ấm, như thế gọi là phù hợp với thiên đạo vậy”.
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng nhà Minh Trần Mi Công đã nói: “Hậu sinh bối hung trung lạc ‘ý khí’ lưỡng tự, tắc giao du định bất đắc lực; lạc ‘tao nhã’ nhị tự, tắc độc thư định bất thâm tâm”.
Tạm dịch:
Kẻ hậu sinh có mang hai chữ ‘ý khí’, thì khi hành sự, giao hữu ở bên ngoài, nhất định sẽ không được hài hòa; tâm lý có mang hai chữ “tao nhã”, thì học sẽ không thể chuyên tâm.
Nhìn một anh hùng, thì phải nhìn chỗ tiểu tiết của họ, xem có chỗ nào bỏ sót hay không. (Ảnh minh họa: kknews)
Trần Mi Công nói: “Khán trung nhân, khán kỳ đại xử bất tẩu tác; khán hào kiệt, khán kỳ tiểu xử bất sấm lậu”.
Tạm dịch:
Nhìn một người bình thường, phải nhìn những khi gặp việc lớn, họ có thể giữ mình được hay không; nhìn một anh hùng, thì phải nhìn chỗ tiểu tiết của họ, xem có chỗ nào bỏ sót hay không.
La Viễn Du nói: “Đại hào kiệt dụng tâm, ân xử nan tri, oán xử dịch chỉ; tỏa tỏa quân tử, hành tàng phản thị”.
Tạm dịch:
Đại hào kiệt (chỉ quân tử) dụng tâm, nằm ở chỗ thi ân với người khác thì ít người biết đến; nhưng khi bị oán trách thì người ta lại biết rõ. Quân tử hèn mọn (chỉ ngụy quân tử), mọi hành vi ứng xử của họ đều tương phản với hào kiệt.
Trần Kế Nho nói: “Khi quyền thế ở trong tay, người khác giống như là bầy kiến tụ tập ở trên thịt dê, vây quanh lấy mình, nịnh nọt a dua; khi quyền thế mất đi, họ giống như chim ưng đã ăn no bay lên bầu trời cao, rời đi một cách lạnh nhạt vô tình. Hạt bụi bơ vơ trong thế giới hỗn loạn, từ xưa đến nay thế sự đa phần vẫn là vậy”.
Dương Phổ khi còn nhậm chức trong triều đình, rất nhiều người đều muốn nịnh bợ ông. Thế nên, khi con trai của Dương Phổ đến kinh thành vấn an cha, trên đường có đi qua huyện châu, ai ai cũng gửi quà biếu, chỉ có huyện lệnh Gian Lăng – Phạm Lý là không.
Dương Phổ hết sức tán dương Phạm Lý, tiến cử Phạm Lý làm thái thú Đức Nữ.
Có người khuyên Phạm Lý viết thư gửi Dương Phổ, để biểu thị lòng biết ơn. Phạm Lý nói: “Tể tướng tiến cử ta, là tuyển dụng nhân tài cho triều đình; ta nhận chức Thái thú, là vì hiến thân cho triều đình, mà phụng mệnh nhậm chức. Một Dương một Phạm chưa từng biết nhau. Ta tại sao lại phải cảm tạ ông ta?”
Nguồn tin: Tinhhoa.net
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự