- Xin thưa: Như kinh đã nói đến, không phải Phật nhất
định không muốn thuyết pháp, song Ngài còn ngần ngại giữa một bên là giáo lý
giác ngộ quá cao siêu, một bên căn tính chúng sanh quá thấp kém, sợ đem giáo
pháp ấy nói cho chúng sanh ấy có hại hơn có lợi. Trong lúc Phật đang quán xét phải
thuyết pháp cách nào mới đưa đến nhiều lợi ích, thì Phạm vương đến thưa thỉnh.
Như vậy việc thưa thỉnh này chỉ đáng xem là một việc làm đúng lúc chớ không phải
một quyết định tối hậu, mở đầu cuộc thuyết pháp của Phật. Vả lại, thời bấy giờ
dân Ấn Độ tin thờ Phạm thiên vương là chúa tể. Nay thấy Phạm thiên vương thỉnh
Phật thuyết pháp như vậy thì họ sẽ tôn kính Phật mà lắng tai nghe, trừ bỏ lòng
tự tôn vào giáo pháp của Bà-la-môn xưa nay. (Muốn hiểu rộng hơn xin xem Luận Đại
Trí Độ quyển 7).
2. A
- Xin thưa: Phàm ở đời việc gì đến nó phải đến. Khi cơ
duyên hóa độ đã mãn tất nhiên Phật vào Niết-bàn, dù khi đó có hay không có Ma
vương thưa thỉnh. Trái lại, khi cơ duyên hóa độ chưa mãn, lúc Ngài ở bên sông Ni liên thuyền,
lúc Ngài vừa Thành Đạo, dù Ma vương có đến thỉnh Phật vẫn không vào Niết-bàn. Vậy
việc Phật nói với Ma vương sau ba tháng sẽ vào Niết-bàn chỉ là một dịp Phật thổ
lộ ý định của mình mà thôi.
3. Phật là bậc tự tại tự chủ, sao Ngài không duy trì
xác thân ở đời mãi mãi để làm lợi ích cho chúng sanh? Nếu Phật còn phải chịu sự
sống chết như mọi người, thì sao gọi Phật là tự tại tự chủ?
- Xin thưa: Chân lý muôn đời của vũ trụ là hễ có sinh
thì có diệt, có hiệp thì có ly, không một ai có thể làm cho khác đi được. Nhưng
chúng sanh vì vô minh thường có tham vọng đi ngược lại chân lý nên phải đau khổ
đời đời. Trái lại chư Phật Bồ -tát giác ngộ, thể nhập chân lý nên thường được tự
tại như chân lý, một sự tự tại siêu tuyệt: Ở nơi sinh mà bất sinh, ở nơi diệt
mà bất diệt; bất sinh bất diệt tức giải thoát tự tại ngoài vòng chi phối của bất
cứ điều gì, dù là sinh là tử. Cho nên cùng một hình thức sinh tử, ta thấy về
xác thân mà ở nơi chúng sanh thì là luân hồi đau khổ, ở nơi Phật thì lại tự tại
giải thoát.
Còn sự lợi sự hại theo Phật thì chúng sanh lắm lúc
không đồng nhau. Cùng một chuyện chúng sanh thấy lợi, Phật thấy không lợi,
chúng sanh thấy hại, Phật thấy không hại. Do đó, dù Phật diệt độ mà Ngài vẫn thấy
chúng sanh còn được nhờ giáo pháp Phật để lại, để nỗ lực tu hành mà không sanh
tâm ỷ lại vào sự tế độ của Phật.
Mỗi người phải lo tự giác ngộ chứ không ai giác
ngộ thế cho ai được. Hễ ai giác ngộ được, người đó hết đau khổ, dù Phật còn ở đời,
mà chúng sanh không chịu tự lo giác ngộ theo phương pháp Phật chỉ dạy cũng
không ích gì.
Một câu chuyện tương tự dưới đây, tuy đơn giản nhưng
có thể làm một tiêu chuẩn cho ta suy nghiệm đến đường lối cứu đời của Phật khác
xa thường tình nghĩ tưởng: Lúc Phật còn tại thế, có một người đàn bà không may phải
làm dâu trong một gia đình ác độc, bà ta bị hất hủi, bạc đãi đủ điều, nên chỉ
còn biết đặt hy vọng vào đứa con độc nhất của mình. Nhưng cũng rủi luôn cho bà,
đứa con ấy vừa lên ba thì mệnh yểu.
Bà đau khổ điên cuồng ôm thây con đến mấy vị
bác sĩ, nhờ cứu chữa. Bác sĩ, lương y nào cũng lắc đầu bó tay. Cuối cùng có người
vẽ cho bà tìm đến đức Thế Tôn, may ra Ngài có thể cứu được con bà. Một tia hy vọng
cuối cùng lại vụt sáng giữa lúc tâm thần đang bối rối đau khổ, bà ôm xác con chạy
gấp đến chỗ Phật, sau khi vái chào, bà liền cầu xin Phật cho đứa con bà sống lại,
Phật dạy: Được, Bà hãy đi kiếm cho Ta một nắm hạt cải ở nhà nào từ xưa nay không
có người chết, đem về đây Ta sẽ cứu cho".
Bà mừng rỡ lật đật chạy đi kiếm.
Khi bà đến nhà thứ nhất, được người đem cho nắm hạt cải. Bà liền hỏi chủ nhà:
"Nhà này xưa nay có ai chết không?" Chủ nhà trả lời: "đã có mấy
người chết". Bà ta nói đức Thế Tôn dặn kiếm thứ hạt cải ở nhà nào xưa nay
không có người chết, nên bà ta đem trả lại nắm hạt cải.
Bà ta cũng hỏi và cũng
không nhận như nhà trước. Cứ như thế bà ta đi từ nhà nọ đến nhà kia khắp vùng
mà vẫn không kiếm ra một nắm hạt cải đúng như lời Phật dặn. Bỗng nhiên một giây
phút tỉnh ngộ, lý vô thường bật sáng trong tâm bà, phá tan bao điều sầu khổ, u
ám, bà lặng lẽ đem con đi chôn rồi trở lại tinh xá bạch Thế Tôn: "Việc
Ngài dạy con đã làm xong". Rồi bà đảnh lễ Phật xin quy y làm đệ tử.
Khi đọc chuyện này, không khéo lại có người đặt lời
phê phán: "Thế Phật có hơn gì mấy ông bác sĩ, lương y? Phật còn không bằng
các đạo sĩ, giáo chủ khác dùng phép lạ cứu người chết rồi sống lại? Tình thương
của Phật như thế tỏ ra một tình thương quá lạt lẽo đến phũ phàng, một tình
thương không thực tế! "Nhưng không, nếu cứ ôn tồn suy nghĩ chắc người ta sẽ
không phê phán một cách quá nông nỗi và sai lầm đối với lòng từ bi quá thâm
thúy và thiết thực như trên của Phật.
Đối với Phật, Ngài đã thấy rõ, sở dĩ
chúng sanh đau khổ chỉ vì không giác ngộ được chân lý thực tại vô thường, lại
muốn bám chặt vào những mảnh vô thường và nhận chắc đó là ta và của ta, vì vậy
tình thương của Ngài là cốt làm thế nào phá trừ vô minh đưa chúng sanh đến nơi
giác ngộ tức hết đau khổ, nếu không như vậy, dù có làm cách nào, cũng chỉ là
cách cứu chữa tạm thời, đôi khi còn vì nó gây thêm đậm nét đau khổ là khác.
Ví
dụ như ông thầy thuốc không chịu tìm chữa từ bịnh căn, chỉ nghe con bịnh nói
đau mắt, đau đầu bừa, không tìm nguyên nhân thì không bao giờ hết bịnh, vì bịnh
căn là mầm mống chưa trừ. Như vậy đến đây, ta hiểu được rằng tại sao Phật không
dùng phép lạ cứu sống đứa con người đàn bà kia.
Chúng ta cũng biết rõ rằng dù Phật
có cứu sống đứa nhỏ bằng phép lạ đi nữa rồi một ngày kia nó cũng vẫn già, vẫn bịnh,
vẫn chết và người đàn bà mẹ nó, cũng vẫn đau khổ như từ bao giờ không hơn không
kém, nếu bà không một lần tỉnh ngộ như trong khi đi xin hạt cải: chết sống
không phải là khổ mà khổ vì không giác ngộ lẽ chết sống.
4. Chúng sanh đau khổ nhưng kém hèn không tự cứu lấy
mình được mới chạy đến Phật cầu cứu. Thay vì phải soi sáng, cứu độ cho họ, Phật
lại dạy: "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi". Như thế nghĩa là
sao? Nếu chúng sanh tự thắp đuốc lên mà đi được thì phỏng có lợi ích gì mà họ
phải chạy đến Phật?
- Xin thưa: Phật dạy mỗi người phải tự giác ngộ lấy
mình chớ không ai giác ngộ thế cho được, đó là lời dạy chí lý hiển nhiên đúng
thật không thể chối cãi được, và câu "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà
đi" đã nằm trong ý nghĩa tự giác ngộ đó.
Tuy nhiên, nếu suốt một đời giáo
hóa của Phật, thỉ chung Ngài chỉ dạy có một câu ấy bất cứ đối với ai và bất cứ
lúc nào, thì cũng đáng cho ta sự thắc mắc trên, bởi nếu như vậy, chúng ta sẽ
không hiểu gì là cái đuốc.
Tại sao phải tự thắp, làm thế nào để thắp và đi về
đâu. Nhưng đằng này khác hẳn, sau giáo pháp Phật đã dạy, giáo pháp đó không ích
lợi gì cả nếu chúng sanh không chịu khó học hỏi kinh nghiệm thực hành, nương
giáo pháp để tự tạo lấy sự giác ngộ chính trong lòng mình. Phật vì thương chúng
sanh cho nên Ngài lại phải nhắc nhở chúng sanh lo thực hành với lời dạy trên.
Giáo pháp như ngón tay chỉ, chân lý ví như mặt trăng,
Phật truyền dạy giáo pháp khác nào như Phật đã đưa tay chỉ mặt trăng (đây là Phật
khai hóa cứu độ cho chúng sanh), người muốn thấy mặt trăng, tất phải định thần
mở mắt nhìn theo hướng tay chỉ, không phải chờ ai nhìn thế mà cho thấy được. Nếu
Phật có nhìn thấy hay người khác có nhìn thấy, cũng chỉ là Phật thấy, mấy người
kia thấy, chớ không phải mình thấy.
Giáo pháp lại có thể ví như những điều kiện
bên ngoài để tạo ra hạnh phúc chân thật bên trong; khi một người có đủ các điều
kiện ấy mà vẫn thấy mình chưa đủ hạnh phúc thì họ phải lo tự tạo lấy hạnh phúc
cho họ, chớ không ai bên ngoài xen vào hay mang lại một hạnh phúc chân thật
trong lòng họ được.
Để hiểu rõ hơn, ta cần xác nhận thời gian tính lời dạy
trên trong quá trình thuyết giáo của Phật. Theo như trong kinh này thì câu
"Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi" đã được Phật dạy vào lúc sắp
nhập Niết-bàn và lúc nhiều giáo pháp đã được Phật nói ra.
Như thế có theo Phật
ta mới hiểu rõ đường lối tu hành, mới thoát khỏi các ý nghĩ ỷ lại sai lầm rằng
ta có thể nhờ người khác đem lại giác ngộ và hạnh phúc chân thật cho ta, và mới
hiểu tại sao phải tự thắp đuốc lên mà đi và thắp bằng cách nào để khỏi bị ở mãi
trong chốn tối tăm đau khổ.
5. Đạo Phật chủ trương lý trí, chú trọng thực tiễn, tại
sao trong kinh còn có những chỗ nói đến các vị thần, như thiên thần, lâm thần,
thọ thần v.v... Như thế Phật giáo cũng tin có quỷ thần, mơ hồ? Phật giáo cũng
là một đa thần giáo?
- Xin thưa: Phật giáo không hề lấy việc tin quỷ thần,
cầu khấn, thầm làm phương châm giải khổ, nhưng Phật giáo quan niệm giữa vũ trụ
có vô lượng thế giới và vô số chúng sanh xuất hiện dưới vô số hình thức sai
khác, lớn có, bé có, ở hư không có, ở dưới biển có, hữu hình có, vô hình có,
tùy theo căn thức và nghiệp cảm.
Mỗi chúng sanh cũng chỉ là mỗi chúng sanh,
không chúng sanh nào có thể sáng tạo và cai quản chúng sanh nào, ngoại trừ tánh
cách tương quan hỗ thành theo luật nhân duyên nhân quả. Do đó, Phật không bao
giờ khuyên dạy người ta cầu xin phúc họa nơi quỷ thần, mà dạy người ta lo cầu
xin họa phúc ngay nơi mình.
Khác với đa số người thế gian và đa thần giáo xem
quỷ thần như những vị sáng tạo và có quyền phép ban phước giáng họa và người ta
cần đến đó cầu xin hoặc sợ sệt kính lễ, trong khi Phật giáo dù nói đến thần này
thần kia chỉ có nghĩa tại chỗ kia chỗ nọ mà thôi, có với không có nó không là
việc bận rộn đến tinh thần của những Phật tử chân chánh.
6. Người ta nói "Quốc gia hưng vong thất phu hữu
trách", một thường dân còn có bổn phận đối với quốc gia xứ sở, huống những
người cầm quyền trị vì, thế nhưng trong kinh có đoạn kể chuyện vua tôi nước nọ
đều xuất gia cả. Xuất gia như thế có hại cho quốc gia không? Có thụ động, trốn
trách nhiệm không?
- Xin thưa: giá trị của sự xuất gia ở chỗ khác đã có
nói nhiều, ở đây xin tóm tắt rằng sự xuất gia chân chính bao gồm một ý nghĩa từ
bỏ dục vọng, tham lam, ngã chấp, để khuôn mình trong lối sống đạo đức với chí hướng
cầu chân thiện mỹ và ban phát chân thiện mỹ. Xuất gia như thế đâu phải là một
hành vi thụ động, trốn đời, hại đời?
Và đâu dễ có mấy người xuất gia, khiến đến
nỗi quốc gia phải suy yếu vì họ? Vả chăng việc nước là việc chung, không người
này còn người khác, một số rất nhỏ người xuất gia có thấm vào đâu với đại đa số
dân chúng. Một điều mà thiết tưởng ai cũng thấy rõ, nước mạnh không nhất thiết
phải dân đông nhưng cốt phải muôn dân nhất trí, và muốn cho muôn dân nhất trí
là phải có đạo đức, hy sinh, công chính.
Mọi người dân trong khi cố công kiến
thiết, họ cũng phải cố công xây dựng ở họ, ở người khác một sức mạnh đạo đức, biết
hy sinh, không ích kỷ, không cố vị tham quyền mới duy trì được nền an lạc chung.
Như thế suy đến chuyện xuất gia của vua tôi nước nọ, thay vì nói đó là yếm thế,
trốn trách nhiệm, ta hãy nói đó là một cử chỉ cao thượng hiếm có, đã nêu một
gương sáng không tham cố quyền lợi, không cố thủ địa vị là điều xưa nay thật
khó tìm thấy ở trong bao nhiêu người có địa vị trong tay.
Tuy vậy, thật ra việc
xuất gia như trên rất hiếm có trong lịch sử và giả sử có ta cũng thấy rõ đâu có
làm hại cho quốc gia, xã hội bằng những con người bất nhân vô đạo, cố vị tham
quyền kết tụ lại trong quốc gia hay thế giới, mà xưa nay đâu đâu cũng có. Cứ
xem nhân loại ngày nay ta cũng đủ thấy là hiện đang đau khổ vì dục vọng hay những
lời dạy ly dục và sự xuất gia như trên?
Tóm lại, trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp
để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết,
những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu, và suy nghiệm lối thuyết pháp
tất đàn của Phật mới mong học được những chỗ đáng học, nắm được chỗ chính yếu của
giáo lý để khỏi kẹt vào những thắc mắc không trọng hệ nhưng lắm lúc làm trở ngại
những giáo lý trọng hệ cần được chú tâm suy tầm tu niệm nhiều hơn.
Tác giả bài viết: HT Thiện Siêu
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự