Tạo sự kết nối
giữa hình nhi hạ với hình nhi thượng, hay thế giới thường tục với thế giới chân
như, luôn luôn là mục đích trong các nghi lễ và nghệ thuật Phật giáo. Dĩ nhiên
không phải chiếc áo, màu sắc hay âm thanh quyết định cho sự kết nối đó. Cái đẹp
trong Phật giáo là cái đẹp của chân và thiện, mà chân và thiện thì vượt ngoài
sắc tướng và âm thanh. Và chính cái đẹp chân thiện đó đóng vai trò kết nối
trong nghi lễ, nghệ thuật Phật giáo.
Với những phương
tiện trong nghi lễ Phật giáo, cái đẹp chân thiện được biểu hiện để đem Tịnh độ
vào thế gian, đem Niết bàn vào thực tại. Và người Phật tử tham dự trong các đạo
tràng thanh tịnh đó có thể trải nghiệm được một phần nào tính chất thanh tịnh
của Niết bàn, cảm nhận được giá trị của hạnh phúc chân thật, để có thể sống một
đời sống thanh tịnh, an vui, lợi mình, lợi người.
Nói về y phục Phật
giáo, ở Việt Nam, ngoài chiếc áo cà sa sẽ trình bày ở phần sau, hình ảnh những
chiếc áo màu nâu, màu vàng hoại sắc, những chiếc áo màu lam dịu gợi lên trong chúng
ta hình ảnh một đời sống đơn giản, khiêm cung, hòa ái, an lạc và thanh thoát.
Những màu sắc đó cũng rất gần gũi với chúng ta.
Đó là màu của đất, của khói
hương, của lá, cây, củ, rễ, những thứ rất gần với đời sống của người Việt trong
mấy ngàn năm. Và đặc biệt trong thế giới chạy đua với thời gian ngày nay, những
màu sắc đó nhắc chúng ta rằng, vẫn còn có những nơi chốn mà thời gian không
chạm đến, sự mâu thuẫn và tranh đua không len vào, nơi mà đất trời có thể được
cảm nhận thật gần, hiện diện ngay trong đời sống này, là những chỗ chúng ta có
thể dừng lại, trong chốc lát hay dài lâu, để tìm thấy sự nghỉ ngơi và tìm lại
chính mình.
Do đó, hình thức
không phải là cái gì dư thừa trong Phật giáo, nhất là Phật giáo Đại thừa, một
tông phái Phật giáo không tách rời với đời sống xã hội.
Thế giới của các
kinh điển Đại thừa, cũng như nghệ thuật Phật giáo, từ tranh tượng cho đến các
lễ nghi, là một thế giới đầy màu sắc và âm thanh. Đời sống của chúng ta gắn
liền mật thiết với sắc tướng và âm thanh. Với Phật giáo, dùng sắc tướng để mở
cánh cửa vô tướng, dùng âm thanh để mở cánh cửa vô thanh. Đó là con đường phát
hiện tánh thấy hay tánh nghe. Dừng lại trong tánh thấy hay tánh nghe đó là nắm
được nền tảng của đời sống, là đặt được chân vào ngưỡng cửa của giáo pháp, là
thấy tánh, là khởi sự cho niềm vui.
Tôn giáo, nhất là
những tôn giáo có sự giao tiếp nhiều với xã hội như Phật giáo, vì vậy có những
nguyên tắc ứng xử có tính cách xã hội qua những phương tiện sắc tướng, âm thanh.
Trong lịch sử truyền bá và phát triển, Phật giáo đã triển khai nguyên tắc khế
lý khế cơ để tạo nên một nền văn hóa Phật giáo phong phú. Và từ đó, nghệ thuật
Phật giáo, một nền nghệ thuật có thể nói là phong phú nhất trên thế giới, phát
sinh.
Trang phục Phật
giáo nói riêng và nghệ thuật Phật giáo nói chung có thể nói là những phương
tiện để thể hiện đời sống giác ngộ. Vì là phương tiện nên trong quá trình
truyền bá và phát triển, cũng giống như những phương tiện khác, y phục Phật
giáo cũng tùy theo thời đại, địa phương mà thay đổi.
Nhưng dù bao nhiêu
thay đổi, có một cái không bao giờ thay đổi. Đó là hình ảnh "đầu tròn áo
vuông," cái mà dù đi đến đâu, ở bất cứ phương trời nào, những người tu sĩ
Phật giáo vẫn nhận ra nhau khi gặp nhau. Áo vuông là chiếc áo cà sa đắp ngoài
của các tu sĩ Phật giáo.
Theo kinh sách,
chiếc y hay cà sa có lịch sử như sau:
Khi Đức Phật rời
bỏ hoàng cung để tìm đạo, theo truyền thống, Ngài đổi bộ đồ sang quý của Ngài
để nhận lấy bộ đồ của người khất sĩ. Theo kinh điển thì y phục của người khất sĩ
thời bấy giờ được may bằng những mảnh vải vụn bị vứt bỏ, có thể là do lửa
cháy, bị quào rách, hoặc là vải quấn thây người chết,… Những mảnh vải vụn đó
được may lại thành một tấm hình vuông hay chữ nhật đủ để quấn thân, rồi được
nhuộm bằng màu từ các loại thảo mộc, tạo nên một loại màu tạp, nhìn không được
sạch sẽ. Đó là chiếc áo mà Đức Phật đã mặc trải qua nhiều năm tìm đạo trước khi
Ngài chứng quả Phật.
Sau khi đức Phật
thành đạo, tăng đoàn bắt đầu được thành lập, dù Đức Phật không còn chủ trương
khổ hạnh mà đi theo con đường trung đạo, Ngài và các đệ tử của Ngài vẫn giữ lối
ăn mặc của các khất sĩ đương thời, không có quy cách riêng về y phục cho Tăng
đoàn. Điều này làm cho vua Tần Bà Sa La gặp khó khăn khi ông muốn cúng dường
các vị tu sĩ Phật giáo. Do đó, ông đã thỉnh cầu Phật cho tu sĩ Phật giáo có
được pháp phục riêng biệt.
Lúc đó, Phật và ngài A Nan đang trên đường du hành
phương Nam để thuyết pháp, nhìn những thửa ruộng ngăn nắp trên cánh đồng bên
đường, Đức Phật bảo ngài A Nan theo hình ảnh đó làm mẫu pháp phục cho chư Tăng,
Ni. Vì vậy chúng ta thường gọi cà sa là áo ruộng phước (phước điền). Ruộng
phước ở đây không có ý chỉ sự giàu có vật chất, nhiều lúa gạo, của cải. Phước ở
đây là phước của đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc, giải thoát, phước cho
những người biết tôn kính những bậc có đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc,
giải thoát.
Và chúng ta có thể
hình dung sau đó là bóng dáng những đoàn người hay chỉ một người đơn độc, mình
mặc cà sa, đầu cạo sạch ung dung bước đi trên những con đường phố, những con đường
làng, ngồi tham thiền dưới những bóng cây của núi rừng, trong các hang động.
Rồi đến một lúc, khi nhìn thấy một đoàn người mặc cà sa, người ta liên tưởng
đến sự an nhiên vắng lặng của một người, nhìn thấy một người mặc cà sa, người ta
liên tưởng đến một tăng đoàn vắng lặng và trang nghiêm. Hình ảnh một chiếc cà
sa trở thành hình ảnh của tất cả cà sa, và tất cả cà sa ở trong hình ảnh một
chiếc áo cà sa. Và người ta cảm nhận về một bản thể Tăng già. Màu cà sa giờ đây
là màu của thanh tịnh và giải thoát, hòa hợp và kết nối, màu của Thánh chúng,
suối nguồn của hạnh phúc.
Cà sa là chiếc áo
đạm bạc, màu sắc đạm bạc, nói lên một đời sống khiêm tốn nhất, đơn sơ nhất. Và
sự khiêm tốn, đơn sơ đến độ "không còn dùi để cắm" đó cũng chính là
một đời sống cao quý và giá trị nhất.
Sau hơn 2.500 năm
Phật giáo truyền bá trên khắp thế giới, do bối cảnh văn hóa và địa dư khác biệt
đã tạo ra những sự khác biệt trong hình thức, nhưng như đã nói, hinh ảnh
"đầu tròn áo vuông" là một hình ảnh bất biến và bao trùm.
Và hình ảnh
"đầu tròn áo vuông" trong một mức độ nào đó còn nói lên tính chính
thống của Tăng đoàn và giáo pháp. Hình ảnh đó rất cần thiết trong những thời kỳ
mà sự mạo danh và lạm dụng phổ biến như ngày nay.
Trang phục Phật
giáo nói riêng và nghệ thuật Phật giáo nói chung có thể nói là những phương
tiện để thể hiện đời sống giác ngộ. Vì là phương tiện nên trong quá trình
truyền bá và phát triển, cũng giống như những phương tiện khác, y phục Phật
giáo cũng tùy theo thời đại, địa phương mà thay đổi.
Nhưng dù bao nhiêu
thay đổi, có một cái không bao giờ thay đổi. Đó là hình ảnh "đầu tròn áo
vuông," cái mà dù đi đến đâu, ở bất cứ phương trời nào, những người tu sĩ
Phật giáo vẫn nhận ra nhau khi gặp nhau. Áo vuông là chiếc áo cà sa đắp ngoài
của các tu sĩ Phật giáo.
Theo kinh sách,
chiếc y hay cà sa có lịch sử như sau:
Khi Đức Phật rời
bỏ hoàng cung để tìm đạo, theo truyền thống, Ngài đổi bộ đồ sang quý của Ngài
để nhận lấy bộ đồ của người khất sĩ. Theo kinh điển thì y phục của người khất sĩ
thời bấy giờ được may bằng những mảnh vải vụn bị vứt bỏ, có thể là do lửa
cháy, bị quào rách, hoặc là vải quấn thây người chết,…
Những mảnh vải vụn đó
được may lại thành một tấm hình vuông hay chữ nhật đủ để quấn thân, rồi được
nhuộm bằng màu từ các loại thảo mộc, tạo nên một loại màu tạp, nhìn không được
sạch sẽ. Đó là chiếc áo mà Đức Phật đã mặc trải qua nhiều năm tìm đạo trước khi
Ngài chứng quả Phật.
Sau khi đức Phật
thành đạo, tăng đoàn bắt đầu được thành lập, dù Đức Phật không còn chủ trương
khổ hạnh mà đi theo con đường trung đạo, Ngài và các đệ tử của Ngài vẫn giữ lối
ăn mặc của các khất sĩ đương thời, không có quy cách riêng về y phục cho Tăng
đoàn. Điều này làm cho vua Tần Bà Sa La gặp khó khăn khi ông muốn cúng dường
các vị tu sĩ Phật giáo. Do đó, ông đã thỉnh cầu Phật cho tu sĩ Phật giáo có
được pháp phục riêng biệt.
Lúc đó, Phật và ngài A Nan đang trên đường du hành
phương Nam để thuyết pháp, nhìn những thửa ruộng ngăn nắp trên cánh đồng bên
đường, Đức Phật bảo ngài A Nan theo hình ảnh đó làm mẫu pháp phục cho chư Tăng,
Ni. Vì vậy chúng ta thường gọi cà sa là áo ruộng phước (phước điền). Ruộng
phước ở đây không có ý chỉ sự giàu có vật chất, nhiều lúa gạo, của cải. Phước ở
đây là phước của đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc, giải thoát, phước cho
những người biết tôn kính những bậc có đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc,
giải thoát.
Và chúng ta có thể
hình dung sau đó là bóng dáng những đoàn người hay chỉ một người đơn độc, mình
mặc cà sa, đầu cạo sạch ung dung bước đi trên những con đường phố, những con đường
làng, ngồi tham thiền dưới những bóng cây của núi rừng, trong các hang động.
Rồi đến một lúc, khi nhìn thấy một đoàn người mặc cà sa, người ta liên tưởng
đến sự an nhiên vắng lặng của một người, nhìn thấy một người mặc cà sa, người
ta liên tưởng đến một tăng đoàn vắng lặng và trang nghiêm.
Hình ảnh một chiếc
cà sa trở thành hình ảnh của tất cả cà sa, và tất cả cà sa ở trong hình ảnh một
chiếc áo cà sa. Và người ta cảm nhận về một bản thể Tăng già. Màu cà sa giờ đây
là màu của thanh tịnh và giải thoát, hòa hợp và kết nối, màu của Thánh chúng,
suối nguồn của hạnh phúc.
Cà sa là chiếc áo
đạm bạc, màu sắc đạm bạc, nói lên một đời sống khiêm tốn nhất, đơn sơ nhất. Và
sự khiêm tốn, đơn sơ đến độ "không còn dùi để cắm" đó cũng chính là
một đời sống cao quý và giá trị nhất.
Sau hơn 2.500 năm
Phật giáo truyền bá trên khắp thế giới, do bối cảnh văn hóa và địa dư khác biệt
đã tạo ra những sự khác biệt trong hình thức, nhưng như đã nói, hinh ảnh
"đầu tròn áo vuông" là một hình ảnh bất biến và bao trùm.
Và hình ảnh
"đầu tròn áo vuông" trong một mức độ nào đó còn nói lên tính chính
thống của Tăng đoàn và giáo pháp. Hình ảnh đó rất cần thiết trong những thời kỳ
mà sự mạo danh và lạm dụng phổ biến như ngày nay.
Trang phục Phật
giáo nói riêng và nghệ thuật Phật giáo nói chung có thể nói là những phương
tiện để thể hiện đời sống giác ngộ. Vì là phương tiện nên trong quá trình
truyền bá và phát triển, cũng giống như những phương tiện khác, y phục Phật
giáo cũng tùy theo thời đại, địa phương mà thay đổi.
Nhưng dù bao nhiêu
thay đổi, có một cái không bao giờ thay đổi. Đó là hình ảnh "đầu tròn áo
vuông," cái mà dù đi đến đâu, ở bất cứ phương trời nào, những người tu sĩ
Phật giáo vẫn nhận ra nhau khi gặp nhau. Áo vuông là chiếc áo cà sa đắp ngoài
của các tu sĩ Phật giáo.
Theo kinh sách,
chiếc y hay cà sa có lịch sử như sau:
Khi Đức Phật rời
bỏ hoàng cung để tìm đạo, theo truyền thống, Ngài đổi bộ đồ sang quý của Ngài
để nhận lấy bộ đồ của người khất sĩ. Theo kinh điển thì y phục của người khất sĩ
thời bấy giờ được may bằng những mảnh vải vụn bị vứt bỏ, có thể là do lửa
cháy, bị quào rách, hoặc là vải quấn thây người chết,…
Những mảnh vải vụn đó
được may lại thành một tấm hình vuông hay chữ nhật đủ để quấn thân, rồi được
nhuộm bằng màu từ các loại thảo mộc, tạo nên một loại màu tạp, nhìn không được
sạch sẽ. Đó là chiếc áo mà Đức Phật đã mặc trải qua nhiều năm tìm đạo trước khi
Ngài chứng quả Phật.
Sau khi đức Phật
thành đạo, tăng đoàn bắt đầu được thành lập, dù Đức Phật không còn chủ trương
khổ hạnh mà đi theo con đường trung đạo, Ngài và các đệ tử của Ngài vẫn giữ lối
ăn mặc của các khất sĩ đương thời, không có quy cách riêng về y phục cho Tăng
đoàn. Điều này làm cho vua Tần Bà Sa La gặp khó khăn khi ông muốn cúng dường
các vị tu sĩ Phật giáo. Do đó, ông đã thỉnh cầu Phật cho tu sĩ Phật giáo có
được pháp phục riêng biệt.
Lúc đó, Phật và ngài A Nan đang trên đường du hành
phương Nam để thuyết pháp, nhìn những thửa ruộng ngăn nắp trên cánh đồng bên
đường, Đức Phật bảo ngài A Nan theo hình ảnh đó làm mẫu pháp phục cho chư Tăng,
Ni. Vì vậy chúng ta thường gọi cà sa là áo ruộng phước (phước điền). Ruộng
phước ở đây không có ý chỉ sự giàu có vật chất, nhiều lúa gạo, của cải. Phước ở
đây là phước của đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc, giải thoát, phước cho
những người biết tôn kính những bậc có đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc,
giải thoát.
Và chúng ta có thể
hình dung sau đó là bóng dáng những đoàn người hay chỉ một người đơn độc, mình
mặc cà sa, đầu cạo sạch ung dung bước đi trên những con đường phố, những con đường
làng, ngồi tham thiền dưới những bóng cây của núi rừng, trong các hang động.
Rồi đến một lúc, khi nhìn thấy một đoàn người mặc cà sa, người ta liên tưởng
đến sự an nhiên vắng lặng của một người, nhìn thấy một người mặc cà sa, người
ta liên tưởng đến một tăng đoàn vắng lặng và trang nghiêm. Hình ảnh một chiếc
cà sa trở thành hình ảnh của tất cả cà sa, và tất cả cà sa ở trong hình ảnh một
chiếc áo cà sa. Và người ta cảm nhận về một bản thể Tăng già. Màu cà sa giờ đây
là màu của thanh tịnh và giải thoát, hòa hợp và kết nối, màu của Thánh chúng,
suối nguồn của hạnh phúc.
Cà sa là chiếc áo
đạm bạc, màu sắc đạm bạc, nói lên một đời sống khiêm tốn nhất, đơn sơ nhất. Và
sự khiêm tốn, đơn sơ đến độ "không còn dùi để cắm" đó cũng chính là
một đời sống cao quý và giá trị nhất.
Sau hơn 2.500 năm
Phật giáo truyền bá trên khắp thế giới, do bối cảnh văn hóa và địa dư khác biệt
đã tạo ra những sự khác biệt trong hình thức, nhưng như đã nói, hinh ảnh
"đầu tròn áo vuông" là một hình ảnh bất biến và bao trùm.
Và hình ảnh
"đầu tròn áo vuông" trong một mức độ nào đó còn nói lên tính chính
thống của Tăng đoàn và giáo pháp. Hình ảnh đó rất cần thiết trong những thời kỳ
mà sự mạo danh và lạm dụng phổ biến như ngày nay.
Hơn bất cứ một
biểu tượng nào của Phật giáo, hình ảnh chiếc cà sa được đặc biệt tán dương.
Theo truyền thống
Trung Hoa, chiếc áo cà sa có mười hai tên gọi. Mười hai tên gọi đó cũng nói lên
mười hai tính chất của cà sa và cũng là tính chất của người mặc cà sa. Đó là:
1. Cà sa: Áo có màu chết, màu đạm bạc, nói lên đức khiêm cung, đơn giản.
2. Đạo
phục: Áo của người đi theo con đường chân chính, hợp lẽ.
3. Thế phục: Áo của
người cắt đứt mọi ràng buộc thế gian, từ bỏ tham luyến.
4. Pháp y: Áo Chánh
pháp, áo của người đi trên con đường chân chánh, hướng đến sự nghiệp giải thoát
chân thật.
5. Ly trần tục: Áo xa lánh những bụi bặm, phiền não của thế gian,
của người dấn bước trên con đường tịnh hóa thân tâm.
6. Tiêu sấu phục: Áo tiêu
trừ phiền não, áo của người đi trên hành trình diệt trừ phiền não cho mình và
cho người.
7. Liên hoa phục: Áo chứa đựng mọi tính chất của Phật giáo: trong
sạch, không nhiễm, lan tỏa, kết nối,…
8. Gián sắc phục: Áo gồm các màu sắc lẫn
lộn, màu không màu, nói lên tính chất rỗng không của các pháp, không có chỗ để
nương.
9. Từ bi phục: Áo từ bi.
10. Phúc điền phục: Áo ruộng phước.
11. Ngọa
cụ: Áo có thể dùng để lót nằm.
12. Phu cụ: Áo có thể dùng để làm chăn đắp. Hai
tên sau cùng nói lên một đời sống lang thang, không cố định, không bám giữ.
Theo kinh điển
Pali, y của Phật được truyền lại cho ngài Ma ha Ca Diếp trước khi Đức Phật nhập
Niết bàn. Và chính ngài Ca Diếp là vị đã tổ chức kỳ kết tập lần đầu tiên để có
sự nhứt quán về giáo pháp của đức Phật.
Chúng ta có thể nghĩ rằng, việc trao y
bát này là một hình thức trao thẩm quyền gìn giữ và lưu truyền giáo pháp. Và
cũng theo kinh điển Nam Tông, khi sắp nhập diệt, ngài Ma ha Ca Diếp lên hang
Tượng Đầu trên núi Kỳ Xà Quật, khoác lên người chiếc y của Phật, nguyện thân
xác không hoại cho đến khi Đức Di Lặc ra đời.
Trong kinh Pháp
Hoa, một trong ba hình ảnh tượng trưng cho những đức hạnh của vị Pháp sư
Pháp Hoa là "mặc áo Như Lai." Mặc áo Như Lai theo kinh giải thích là
sống trong hạnh nhu hòa, nhẫn nhục.
Cà sa là biểu tượng của hạnh khiêm cung, nhu
hòa, nhẫn nhục. Đức khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục trong Phật giáo liên hệ mật
thiết với tinh thần bình đẳng, tin chắc rằng mọi chúng sanh đều có Phật tánh và
khả năng thành Phật. Đó là tâm từ, là hạnh thành Phật. Hình ảnh ngài Thường Bất
Khinh trong kinh Pháp Hoa nói lên hạnh nhu hòa, nhẫn nhục đó.
Ngài Thường Bất Khinh
là một vị Tăng sống trong thời kỳ Tượng pháp của Đức Phật Oai Âm Vương. Ngài không
tụng đọc kinh sách, chỉ suốt đời thực hành một hạnh: khởi tâm bình đẳng và cung
kính đến tất cả mọi người, tin rằng mọi người đều có tánh Phật.
Mỗi khi gặp một
vị Tăng, Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào, Ngài đều cúi lạy, tán dương: "Tôi
rất quý kính ngài, chẳng dám khinh mạn. Vì sao? Vì quý ngài đều tu hành đạo Bồ
tát, sẽ đặng làm Phật". Dù bị ngược đãi, ngài Thường Bất Khinh không
thối tâm trong việc thực hành hạnh Thường Bất Khinh đó. Và khi sắp lâm chung,
ngài lãnh hội được toàn bộ giáo pháp Nhất thừa từ Đức Phật Oai Âm Vương.
Như vậy, cà sa là
áo Phật, áo Như Lai, hạnh cà sa là hạnh Phật. Cà sa tượng trưng cho sự nhu hòa,
nhẫn nhục, bình đẳng, khiêm cung. Đó cũng là những đức hạnh để phát triển tâm
Từ.
Kinh Bi Hoa(Từ Bi Liên Hoa), đã mô tả năm công đức thánh thiện của áo cà sa. Năm công đức
đó là kết quả của năm lời nguyện của Đức Phật khi Ngài tu hành đạo Bồ tát. Đức
Phật nguyện khi Ngài chứng quả Chánh giác, cà sa của Ngài sẽ có năm đức như
sau:
1. Người thế tục biết kính trọng cà sa sẽ được Tam thừa.
2. Trời, rồng,
người, quỷ, thần biết kính trọng cà sa cũng sẽ được Tam Thừa.
3. Chúng sanh và
quỷ thần chỉ cần bốn tấc cà sa sẽ được no đủ.
4. Chúng sanh thường nghĩ nhớ đến
cà sa sẽ tăng trưởng lòng từ bi.
5. Người trong trận mạc nếu có một mảnh cà sa
và kính trọng mảnh cà sa đó thì sẽ được vinh quang.
Kinh Đại thừa
bổn sanh tâm địa quán đề cập đến mười lợi ích của việc mặc cà sa như sau:
"Một là,
che thân mình, xa lìa được sự xấu hổ, đầy đủ đức biết hổ thẹn để tu hành thiện pháp.
Hai là, xa lìa sự lạnh, nóng, ruồi, muỗi, thú dữ, trùng độc, để an ổn tu đạo. B
a là, hiện ra tướng mạo Sa môn xuất gia, người ta trông thấy sinh tâm vui vẻ,
xa lìa được tâm tà vạy.
Bốn là, cà sa tức là bóng dáng lá cờ báu của nhân,
thiên, chúng sinh tôn trọng kính lễ được sinh Phạm thiên.
Năm là, khi mặc cà
sa tưởng tượng là lá cờ báu, diệt được mọi tội, sinh mọi phúc đức.
Sáu là, bản
chế cà sa nhuộm thành hoại sắc là để muốn xa lìa năm dục tưởng, không sinh tâm
tham ái.
Bảy là, cà sa là áo thanh tịnh của Phật, dứt hẳn được phiền não, tạo
ra ruộng phúc tốt lành.
Tám là, thân mặc cà sa, tội nghiệp tiêu trừ, phát sinh
mười thiện nghiệp đạo, niệm niệm tăng trưởng.
Chín là, cà sa cũng như ruộng tốt
hay làm tăng trưởng Bồ tát đạo. Mười là, cà sa cũng như áo giáp, mũ trụ, tên
độc phiền não không hại được." (KinhĐại thừa bản sinh tâm địa quán, HT.Thích Tâm Châu dịch).
Luận Thập trụ
bà sa đề cập đến 26 loại y và mười lợi ích của y. Kinh Hải Long Vươngđề cập đến việc Long Vương thoát khỏi móng vuốt của đại bàng nhờ sự che chở của
cà sa của Phật.
Như vậy, theo kinh
điển, công đức của cà sa là vô lượng.
Với Thiền Tông,
chiếc áo cà sa cũng mang một ý nghĩa đặc biệt và rất được tôn quý. Chiếc cà sa
được chư Tổ truyền nhau, là chiếc áo Chánh pháp và sự trao truyền đó mang ý nghĩa
là trao truyền Chánh pháp. Chiếc áo đó đi theo dòng giác ngộ của Thiền, tức đi
theo tâm ấn của Phật. Đối với Thiền, đó là chiếc áo tượng trưng hay chứa đựng
toàn bộ kho tàng giác ngộ của chư Phật, chư Tổ và của tất cả chúng sanh.
Không những chiếc
y truyền thừa theo dòng Tổ có giá trị siêu việt mà cà sa bình thường của các
Thiền tăng cũng có một ý nghĩa và giá trị siêu việt. Trong tiểu luận The
Merits of the Kasaya, ngài Uku viết:
"Cà sa là
một vật rất quan trọng đối với người theo Phật. Nó không chỉ là pháp phục của
Tăng, Ni, mà còn đại diện trọng tâm của thiền; mặc cà sa là mặc áo Phật và mặc
áo Phật là toàn tâm toàn ý thực hành thiền. Cà sa là thân và tâm của Phật".
Trong Chánh
pháp nhãn tạng, ngài Dogen (Đạo Nguyên) viết:
"Nên nhớ
rằng cà sa là đối tượng tôn kính và thành tâm hướng về Đức Phật. Nó là thân của
Phật và tâm của Phật. Chúng ta gọi nó là áo giải thoát, áo ruộng phước, áo vô
tướng, áo tối thượng, áo nhẫn nhục, áo Như Lai, áo Đại từ, áo Đại bi, áo vinh
quang, áo tam miệu tam bồ đề. Chúng ta nên nhận nó và duy trì nó như vậy, khiêm
cung đội trên đầu. Vì nó là như vậy, chúng ta không bao giờ thay đổi nó theo ý
chúng ta".
Chỗ khác Ngài viết:
"Khi chứng
quả Phật, tất cả các Đức Phật đều mặc cà sa, điều đó cho thấy rõ mặc cà sa được
coi như có công đức đáng kính và cao cả nhất." (Chánh pháp nhãn tạng).
Tóm lại, theo ngài
Dogen, công đức của chiếc áo cà sa không thể suy lường. Đó là suối nguồn bất tận
của thành tựu và phúc lạc. Nó vượt ngoài không gian và thời gian. Nó hiện diện
ngay nơi đây bây giờ, mà cũng đang hiện diện khắp pháp giới trong mọi thời
gian. Cà sa chính là Pháp thân của chư Phật.
"Chiếc áo
cà sa không phải là một sáng tạo của con người, cũng không phải không là một sáng
tạo của con người. Nó không dừng lại một nơi nào, nhưng không có chỗ nào nó
không dừng lại. Và ý nghĩa chân thật của chiếc áo cà sa chỉ có chư Phật mới
hiểu được. Những người đi trên con đường đạo, những lợi ích của chiếc áo cà sa
mang đến cho họ thật là vô cùng tận". (Chánh pháp nhãn tạng).
Trở về với chúng
ta, chúng ta đang hiện diện nơi đây đồng thời chúng ta cũng đang hiện diện
trong pháp giới của chư Phật. Pháp giới đó từ ngàn xưa cho đến ngàn sau không hề
thay đổi, và chúng ta vẫn thường hằng ở trong đó. Nhưng chúng ta đã u mê không
nhìn thấy cho đến khi hình bóng chiếc cà sa xuất hiện để kết nối chúng ta với
pháp, mở mắt cho chúng ta để chúng ta thấy được rằng, chúng ta vẫn đang ở trong
pháp giới của chư Phật, có cùng pháp thân với chư Phật. Và từ đó đời sống của
chúng bắt đầu thênh thang và có ý nghĩa.
Đời sống đó chẳng
những đem đến sự an vui, hạnh phúc và ý nghĩa cho cá nhân, mà còn là tố chất
làm thăng hoa tập thể, chất keo kết nối cộng đồng. Và như chúng ta thấy, khi
những bóng cà sa từ những chiếc thuyền buôn ghé vào đất nước chúng ta trong
hoàn cảnh khổ nhục của người dân mất nước, những chiếc cà sa đó đã xoa dịu niềm
đau và làm thăng hoa, kết nối chúng ta, để khi hội đủ nhân duyên, những chiếc
cà sa đó lại vạch đường cho một tương lai tươi đẹp của đất nước.
Đó là ý nghĩa của
chiếc áo cà sa riêng đối với chúng ta, cũng như đối với lịch sử của chúng ta.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự