18 tuổi, Gia Hòa lập gia đình với một cô gái nghèo tên Phạm Thị Trí trong làng. Vợ chồng tất tả làm ăn nhưng việc gì cũng thất bại.
Phan Thiết xưa có câu “Nhất Xì, nhì Đậu”. Xì tức là ông Bát Xì, tên thật là Trần Gia Hòa. Đậu là bà Lục Thị Đậu- người được chúng tôi đề cập trong bài báo trước. Hai người, một nam, một nữ giàu có nhất Phan Thiết. Câu nói của người xưa thôi thúc chúng tôi tìm về quá khứ.
Cuộc đời cơ cực
Năm 1872, ở làng Phú Trinh (Phan Thiết, Bình Thuận), vợ chồng một thầy giáo nghèo sinh được 2 cô gái và 1 cậu con trai.
Ông Bát Xì, tên thật là Trần Gia Hòa.
Cậu con trai được vợ chồng thầy giáo đặt tên Trần Gia Hòa với mong muốn con mình có cuộc sống bình an, hạnh phúc sau này. Người chồng hằng ngày dạy học cho bọn trẻ trong xóm nghèo, còn người vợ tảo tần chợ búa kiếm thêm đồng rau, đồng cháo nuôi con. Gia đình nhỏ ấy luôn đầy ắp tiếng cười.
Thế nhưng hạnh phúc đó chẳng được lâu. 9 năm sau đó cậu bé Gia Hòa vĩnh viễn mất mẹ. Cha cậu buồn rồi sinh bệnh tật không còn sức dạy học, nuôi con.
Trong khốn cùng, cha cậu bấm bụng cho con mình đi giúp việc cho một nhà giàu để nhận một số tiền trang trải việc gia đình. Cuộc sống bất hạnh của cậu bé 9 tuổi bắt đầu từ đây.
Cậu bị gia chủ bắt làm quần quật, mỗi buổi cơm chỉ được một con cá nục nhỏ, quần áo bẩn thì đợi đến tối cởi ra giặt, sáng mặc lại chứ không có đồ thay.
Năm Gia Hòa 15 tuổi may nhờ bà mẹ kế ăn ở cần kiệm, bỏ ít tiền chuộc cậu về cho đi gánh muối mướn và lên rừng kiếm củi. Được vài năm, giặc Tây đến cậu xin đi cắt cỏ ngựa và làm bồi cho bọn Tây kiếm tiền mang về cho cha và mẹ (kế).
18 tuổi, Gia Hòa lập gia đình với một cô gái nghèo tên Phạm Thị Trí trong làng. Vợ chồng tất tả làm ăn nhưng việc gì cũng thất bại.
7 đứa con ra đời nhưng bệnh tật không tiền chữa trị và lần lượt ra đi. Bất hạnh và tai ương luôn bám riết người chồng, người cha ấy. Một lần theo người ta đi vớt củi mùa lũ trên thượng nguồn sông Cà Ty, Trần Gia Hòa trượt tay, bị nước cuốn trôi và may mắn bám vào được tảng đá mồ côi giữa dòng.
Sau lần chết hụt đó, Trần Gia Hòa nghĩ rằng ông trời muốn mình phải sống vì vậy phải nghĩ cách tồn tại và vươn lên. Vợ chồng không nản chí và chọn nghề muối mắm để sống. Khi có được vài chục đồng, vay thêm ba chục đồng nữa, vợ chồng ông muối được một thùng cá đầu tiên, rồi dần dà cất được lều cá tại Phú Trinh
Đang trong lúc bắt đầu làm ăn phát đạt, vợ của ông đột ngột mất, bỏ lại ông với bao quyết tâm làm thay đổi cuộc sống.
Hàm hộ của các hàm hộ
Năm 1910, ông Trần Gia Hòa 38 tuổi, quyết định tái hôn với bà Nguyễn Thị Trụ ở làng Phú Tài. Từ một sở lều mắm đầu tiên ở ven sông Cà Ty, ông bà phát triển thành một khu nhà lều chế biến nước mắm có hàng trăm thùng trổ và hàng trăm lao động trong một số năm.
Và dĩ nhiên, ghe thuyền đánh cá ở Phan Thiết đều tập trung cá về nhà lều của ông… Không chỉ ở Phan Thiết, vợ chồng ông ra Phan Rí, một trung tâm ngư nghiệp thời đó để xây dựng nhiều sở lều nước mắm. Tiền lãi từ sản xuất nước mắm, vợ chồng dành mua nhà phố và mua ruộng.
Trong bản phân chia thừa kế của ông, có gần 70 căn nhà phố ở các đường: Gia Long (Nguyễn Huệ ngày nay), Trưng Trắc… Riêng tại đường Ngô Sĩ Liên hiện nay, ông có nguyên dãy nhà phố 15 căn, ngó mặt ra chợ lớn Phan Thiết.
Về ruộng vườn, ông bà có hơn 4.000 ha ở các làng: Đại Tài, Đại Nẫm, Tầm Hưng, Thiện Mỹ, Phú Lâm, Phú Hội, Lại An, Tỳ Hòa, Vĩnh Hòa, Phú Tài, Phú Long… Có thể nói từ thập kỷ 20 - 40 của thế kỷ XX, vợ chồng ông Trần Gia Hòa là người sản xuất nước mắm (hàm hộ) quy mô lớn nhất tại Bình Thuận. Các nhà hàm hộ nổi tiếng ở Phan Thiết sau này cũng do vợ chồng ông cho mượn tiền và giúp đỡ để làm ăn mà phát đạt.
(Còn nữa)