Vào chùa
Ngày tuần, mồng Một hàng tháng, chỉ cần xe của bạn đến
gần một ngôi chùa bất kỳ nào đó là có một đội ngũ "cảnh sát giao thông"
đứng ngang giữa đường để chặn lại với những lời mời chào vồn vã: "Gửi xe
vào chùa đi anh", "hôm nay chùa không cho xe vào trong đâu". Hoặc
đưa giá trông xe luôn: "5.000 một xe chị ơi, lên kia 10.000 đấy".
Cái
giá không có trong bất kỳ quy định nào vẫn ngang nhiên tồn tại cho dù người đi
lễ có kêu than vẫn phải chấp nhận thôi bởi một lẽ thường tình không gửi thì
không vào lễ được. Một bác trung tuổi phải quát lên rằng: "Tôi không vào
chùa, sao giữ xe của tôi" mới thoát khỏi đám người này.
Gửi xong xe thì ngay lập tức du khách bị đội "cái
bang" bủa vây; "cô ơi cho già này xin lộc", "chú nhón tay làm
phúc cho con xin miếng cơm"... Người xưa có câu: "Lộc bất tận hưởng",
phát tâm làm phúc âu cũng là cái lẽ nên làm nhưng phát tâm nơi cửa chùa cho những
người lấy ăn xin là một nghề thì cũng là việc nên nghĩ lại lắm thay.
Lễ Phật
"Một vái xa bằng ba vái gần", ấy nhưng Phật
tử nào cũng muốn đến thật gần bàn thờ Phật để dâng hương, đặt lễ, để được chiêm
bái Đức Phật hoặc hơn nữa nếu được chạm tay vào chân Ngài thì phúc lộc lắm
thay.
Vậy nên mới có cảnh chen nhau vào gần Tam Bảo, đầu đội lễ, miệng hô to
xin cho đi nhờ qua, tay luôn gạt người bên phải, xô người bên trái. Ai cũng muốn
vào gần hơn nữa nên mạnh ai người nấy chen, nhà chùa phải lên tiếng yêu cầu các
Phật tử bình tâm chờ đến lượt mà khó lắm thay.
Phật dạy: Khi tâm mình tịnh tức là cõi Phật tịnh. Nếu
ngộ được pháp vô sinh thì cõi Tây phương cách chẳng bao xa, chẳng ngộ tự tâm mà
niệm Phật thì con đường vãng sanh còn xa xôi. Muốn thấy Phật thì tìm ở nơi
tánh, chớ nên cầu ở bên ngoài, chỉ cần tâm được thanh tịnh thì tự tánh tức là
Tây phương vậy. Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy: Muốn tu hành thì ở nhà tu cũng được, chẳng
cần ở chùa.
Khách hành hương chưa hiểu hết lời Phật dạy nên không
hiếm kẻ bầy mâm cao, cỗ đầy, xôi thịt oản quả, chè thuốc rượu ngoại trên Ban
Tam Bảo. Mà lời khấn thì ôi thôi "ngộ" lắm thay: "Con cầu trời
khấn Phật cho con buôn Đông thắng Đông, buôn Tây thắng Tây, đi tươi về tốt,
buôn một bán mười...", "cầu cho con trúng quả chứng khoán trong tháng
này" hay như "Cầu cho gia chủ nhà bên cạnh không có cơ hội gây khó
khăn cho con...".
Phải chăng họ muốn "vơ lộc" của cả thiên hạ về
mình. Nếu xin mà được hết thì làm gì có kẻ nhảy lầu vì vỡ nợ, cũng chẳng còn cảnh
hàng xóm láng giềng gây gổ cãi nhau về những chuyện không đâu. Phật tại tâm đâu
tại nơi cửa chùa!
"Lễ mọn lòng thành" của các con nhang đệ tử
không thể thiếu tiền vàng. Họ quan niệm càng cúng nhiều tiền càng được nhiều lộc
mà không biết rằng tiền vàng không dùng để cúng Phật.
Theo sử sách của người Trung Hoa, tục đốt vàng mã bắt
đầu từ thời nhà Hán. Nguyên do vì nhà vua muốn thực hành lời dạy của Đức
Khổng Tử: "Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn", nghĩa là thờ người
chết như thờ người sống, thờ người mất như thờ người còn và cho rằng người mất
sống nơi cõi âm vẫn có những nhu cầu như kẻ còn sống như tiền bạc, nhà cửa, thực
phẩm v.v...
Nên khi nhà vua băng hà, phải bỏ tiền bạc thật vào trong áo quan để
vua tiêu dùng. Sau đó quan bắt chước vua và rồi dân bắt chước quan. Ai
cũng chôn tiền thật theo người chết. Bọn trộm cướp biết vậy nên đào trộm
mồ những người giầu có, như mộ vua Hán Văn Đế bị quân trộm khai quật lấy hết
vàng bạc châu báu.
Về sau từ quan đến dân thấy việc chôn tiền bạc thật
quá tốn kém nên mới nảy sinh ra dùng giấy cắt ra làm tiền giả, vàng giả để thay
thế. Dần dà người dân bắt chước và trở thành tập tục. Đến năm Khai Nguyên
thứ 26 (năm 738), đời Đường Huyền Tông, nhà vua ra sắc dụ cho phép dùng tiền giấy
thay cho tiền thật trong việc cúng tế cầu siêu do quan tế tự Vương Du phụ
trách. Việc sử dụng vàng mã chính thức bắt đầu từ đấy.
Tục lệ đốt vàng mã này ảnh hưởng sâu đậm vào nước ta,
từ vua chúa đến thứ dân. Vụ đốt vàng mã lớn nhất Việt Nam vào đầu thế kỷ
XX là trong đám tang của Vua Khải Định. Đức Vua băng hà vào ngày 25/11/1925,
Triều đình Huế đã làm nguyên cả ngôi điện Kiến Trung bằng giấy thật lớn và nhiều
loại đồ dùng của vua như ngự liễn, long xa, tàn kiệu, v.v... để đốt theo vua.
Không hề thấy có việc đốt vàng mã cúng tế người chết
được ghi trong tam tạng kinh điển của nhà Phật. Quan niệm sống chết đối với Phật
Giáo chỉ là hai mắt xích trong một chuỗi sinh tử dài vô tận, từ vô thủy cho tới
ngày giải thoát tối hậu, con người đạt tới cảnh giới bất tử.
Do đó, Phật
giáo không có khái niệm về một nơi chốn dành riêng cho những người đã chết, mà
dân gian thường hay gọi là cõi âm hay là âm phủ. Đây là những từ ngữ của tín
ngưỡng dân gian. Vậy nên càng không có tục đốt tiền vàng cúng Phật.
Nhưng không ít kẻ đặt lên mỗi ban thờ không chỉ một lễ
tiền vàng mà cả đinh tiền vàng. Mỗi chùa có từ 5 đến 7 ban thờ hoặc nhiều hơn.
Mỗi ban thờ được đặt cả 1 đinh tiền vàng (10 lễ). Vậy tiền vàng này cúng cho
ai, cúng để xin điều gì (?!). Và rồi sau mỗi khoá lễ, nhà chùa phải mất một
ngày đêm để hoá hết số vàng mã đó. Một sự lãng phí và đi ngược với Phật pháp.
Xin lộc
Ai vào chùa cũng muốn xin lộc cho bản thân và gia
đình. Thế nhưng, xin lộc cũng có điều cần xem lại. Người ta dâng hương hoa oản
quả lễ Phật rồi xin một phần lễ đó mang về cho mình. Phần còn lại gửi nhà chùa
phát tâm cho chúng sinh hoặc chính mình mang phần lộc đó phát tâm cho người
khác.
Vào những ngày có khóa lễ, nhà chùa thường chuẩn bị
trước một số lộc để phát cho Phật tử. Ai cũng muốn xin lộc, xin càng nhiều càng
tốt nên lại diễn ra cảnh chen lấn xô đẩy nhau. Mỗi phần lộc đơn giản là một quả
chuối và một cái oản đỏ. Vậy nhưng có người phải xin cho được 4 phần cho các
thành viên trong gia đình.
Người xin được lộc rồi cũng không thoát ra khỏi đám
đông đó, người chưa có lộc thì bằng mọi cách chen vào cho kỳ được, người phát lộc
không thể đứng thẳng lên được vì bị đám người hỗn độn đó níu kéo, giật áo, bám tay.
Đức Phật trên toà sen chắc buồn lắm thay vì thấy chúng sinh của mình không hành
xử theo đúng tâm nguyện của Người.
Đau lòng hơn nữa là có chúng sinh còn so đo đắt rẻ khi
nhận lộc chùa (?!). Xin đưa một ví dụ đáng buồn về việc này: Vào ngày mùng 8
tháng Giêng, mùng 8 tháng Hai năm Canh Dần, Tổ đình Phúc Khánh (Ngã Tư Sở) làm
lễ giải hạn sao La Hầu. Mỗi chúng sinh gặp sao La Hầu đóng 100.000đồng để chùa
làm lễ.
Đương nhiên cảnh xô đẩy nhau bất chấp già trẻ lại diễn ra. Một chị sau
khi cầm được lộc lại nói: "100.000 đồng mà chỉ có thế này thôi sao".
Đau lòng quá. Đi lễ Phật mà tính toán tiền nong đã là điều không nên huống chi
đây là khoá lễ giải hạn cho nhà chị ta.
Hãy làm một phép tính đơn giản thôi: Khoá lễ giải sao
La Hầu (cũng như các sao khác) sẽ được cử hành vào một ngày nhất định trong
tháng. Như vậy tương đương với mỗi người sẽ được nhà chùa làm lễ cho 12 lần
trong năm.
Nếu là năm nhuận sẽ là 13 lần. Mỗi người chỉ "tốn" từ 7.700 đồng đến 8.300 đồng cho một khoá lễ. 8.000 đồng này sẽ được chi cho việc viết sớ, mua hoa quả dâng lễ tại các Ban thờ, chuẩn bị lộc để phát cho chúng sinh. Sớ được viết bằng chữ Hán trên giấy mầu khổ A3. N
gười viết sớ là giáo
viên, sinh viên khoa tiếng Trung Đại học Hà Nội, Đại học Quốc gia. Họ phát tâm
cho chùa chứ hoàn toàn không có chuyện công sá gì. Làm phép tính như vậy thật
chua sót và càng thấy tâm của người đi lễ mới đáng thương làm sao.
Và văn hoá
Cách đây nhiều năm, người ta phê phán nam thanh nữ tú
ăn mặc nhố nhăng đi lễ chùa. Báo chí nói nhiều, nhà chùa cảnh báo cũng không
ít. Vậy nên tình trạng này bớt hẳn đi. Bớt là bớt độ ngắn của váy, của quần, độ
hở của áo thôi chứ độ mỏng của trang phục thì chưa bớt được là bao. Nhiều chị
em "diện" nguyên của bộ quần áo ngủ mốt "lò so" vào chùa,
dài thì có dài thật nhưng mỏng và nhàu thì... ôi thôi.
Khóa lễ đang được cử hành một cách trang nghiêm, các
Phật tử nhất tâm thành kính, không gian yên ắng tôn nghiêm bỗng dưng một bài
hát rất "hot" của M.Jackson, của Taylor vang lên rộn ràng. Chủ nhân của
tiếng nhạc đó hoặc đang "thành kính" quá hoặc tìm mãi không thấy điện
thoại đâu nên khiến mọi người "bỗng dưng xôn xao".
Khóa lễ kết thúc cũng là lúc mọi cố gắng của nhà chùa
để giữ trật tự cũng đều vô ích. Cảnh nhốn nháo lại diễn ra, cảnh xô đẩy lại tiếp
tục và rồi sân chùa biến thành một bãi rác với đủ các loại giấy báo, bìa cát
tông, vỏ chai lavie. Trước khóa lễ, nhà chùa rải chiếu hoa nơi sân chùa cho Phật
tử ngồi lễ, nhưng kết thúc khoá lễ thì những chiếc chiếu hoa lại bị giầy xéo một
cách không thương tiếc.
Điều răn thứ 13 của Phật là: Khiếm khuyết lớn nhất của
đời người là kém hiểu biết, hiểu về Phật pháp không phải ai cũng hiểu mà không
phải ai cũng có cơ hội để hiểu. Nhưng hiểu về văn hoá ứng xử ở mọi nơi, mọi lúc
thì nên lắm thay. Chỉ tiếc rằng chốn linh thiêng trong tâm mỗi người đang ít
nhiều bị xáo trộn.
Nguồn tin: Tuần Việt Nam Net
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự