Người giác ngộ còn bị chi phối bởi luật nhân quả không?

Chủ nhật - 23/09/2012 08:56
Có người cho rằng bậc giác ngộ như đức Phật vẫn còn bị nhân quả. Họ viện dẫn chính đức Phật kể Ngài bị nhức đầu ba ngày do một kiếp xưa đã gõ đầu con cá. Vậy cho chúng tôi biết ý kiến của quý ban biên tập là người giác ngộ còn bị chi phối bởi luật nhân quả không?

Hầu như trong chúng ta ai cũng biết hay nghe nói tới hai chữ Nhân Quả, như ai gieo nhân thì người ấy gặt quả.  Nếu gieo nhân lành, đem niềm vui cho người khác, kết quả về sau chúng ta sẽ được an vui.  Nếu gieo nhân ác, đau khổ sẽ trở lại với chúng ta.  Với luật nhân quả, những gì con người làm cho người khác sẽ có kết quả lại cho họ một cách công bình, chắc chắn và hợp lý. 

Luật nhân quả là một qui luật tự nhiên, một sự thật hiển nhiên của vũ trụ vạn vật không có gì phải nghi ngờ bàn cãi.  Người Việt Nam chúng ta thường nói “ở hiền gặp lành” hay “gieo gió gặt bão” đều phản ánh niềm tin sâu sắc vào luật nhân quả này.  Tuy nhiên đó là ở trong thế giới hiện tượng tương đối, nơi mà mọi hiện tượng của đời sống, mọi hiện hữu vạn vật đều phải vận hành theo quy luật tự nhiên, luôn luôn trôi lăn theo định luật vô thường: sinh, trụ, dị, diệt - thành, trụ, hoại, không - sinh, lão, bệnh, tử...v..v... 

Thí dụ như cái tách trà có thể vỡ nát, nghĩa là bị mất đi, bị tiêu tan, nhưng bản tính của nó là đất vẫn còn.  Hay như sóng biển, sinh diệt liên hồi, nhưng bản tính của nó là nước vẫn thường tại.  Trong thế giới tương đối, mọi thứ đều đối lập, mâu thuẫn và bất bình đẳng với nhau: có - không, sanh - tử, thiện - ác, tốt - xấu, giầu - nghèo, sang -hèn, sướng - khổ .. v..v... Tất cả đều ở trong phạm vi giới hạn của tư tưởng và cảm giác con người. 

Như thế phải có một cái gì ở ngoài phạm vi giới hạn của tư tưởng và cảm giác con người.  Cái đó chính là bản thể tuyệt đối, một thế giới bất khả thuyết của ngôn ngữ, tức là không thể dùng tư tưởng, lời nói hay văn tự diễn tả, cần phải kinh nghiệm thực chứng mới biết được.  Thế giới tuyệt đối này tức là cảnh giới Niết Bàn do mười phương chư Phật ca ngợi và Phật Thích Ca đã dùng bốn chữ Thường Lạc Ngã Tịnh để tán thán cảnh giới Niết Bàn này.  Và mục tiêu tối hậu của người học Phật là giải thoát khỏi cảnh giới tương đối. 

Giải thoát khỏi cảnh giới tương đối tức là trở về hay hội nhập lại cái bản thể tuyệt đối xưa nay vốn sẵn có.  Trong cảnh giới tuyệt đối này, lẽ dĩ nhiên, chẳng có tương đối, tất cả đều tuyệt đối, không sanh tử, không thiện ác, không tốt xấu, không giầu nghèo, không cấu tịnh, không tội phước, không đối đãi và tuyệt đối cũng chính là bất nhị, là không hai. 

 Đã bất nhị không hai thì nhân quả không còn.  Nhân cũng không và quả cũng không.  Do đó bất cứ chúng sinh nào chưa giác ngộ, chưa giải thoát khỏi vòng sinh tử thuộc thế giới hiện tượng tương đối, thì vẫn còn bị chi phối bởi qui luật nhân quả (vốn chỉ hiện hữu trong thế giới tương đối). 

Có người cho rằng bậc giác ngộ như đức Phật vẫn còn bị nhân quả.  Họ viện dẫn chính đức Phật kể Ngài bị nhức đầu ba ngày do một kiếp xưa đã gõ đầu con cá.  Ngài kể về câu chuyện “Vua Lưu Ly giết chết cả tộc Thích Ca” như sau:  

“Thuở xưa ở thành Ca Tỳ La bên xứ Ấn Độ, có một làng đánh cá, gần làng có hồ rộng mênh mông, gặp lúc hạn hán mất mùa, bao nhiêu tôm cá trong hồ đều bị dân làng bắt ăn, đến con cá cuối cùng lớn nhất cũng bị làm thịt, chỉ có một đứa bé không hề thích ăn cá, đùa nghịch gõ lên đầu con cá lớn kia đến ba cái.  Đến thời Phật Thích Ca, vua Ba Tư Nặc là người sùng mộ đạo Phật, cưới một cô con gái dòng họ Thích Ca sinh ra một thái tử tên là Lưu Ly.

Thuở ấu thơ, Lưu Ly thường hay qua bên thành Ca Tỳ La chơi. Một hôm vì đùa nghịch nơi tòa thuyết pháp của đức Phật, bị người gác mắng và đuổi ra ngoài, Lưu Ly nuôi hận trong lòng, đến khi lên ngôi vua, đem đại quân tấn công thành Ca Tỳ La, giết sạch cư dân trong thành, trong thời gian này đức Phật nhức đầu hết ba ngày, các vị đại đệ tử đến cầu xin Phật giải cứu. Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông lấy bình bát thâu năm trăm người họ Thích Ca bay lên không, cho rằng đã cứu được họ, nhưng đến khi đổ ra, thì chỉ thấy toàn máu. Các vị đệ tử hỏi Phật nguyên do vì đâu.  

Đức Phật bèn đem câu chuyện tiền kiếp thôn dân ăn cá kể lại, con cá lớn kia nay là vua Lưu ly, còn binh tướng theo Lưu Ly là bầy tôm cá trong hồ khi xưa, dân cư thành Ca Tỳ la bị giết chính là thôn dân ngày nọ, còn đứa nhỏ gõ đầu cá mà không ăn cá chính là đức Phật ngày nay chịu quả báo nhức đầu ba ngày là do hồi ấy gõ đầu con cá ba lần. Nghiệp khó chuyển nên bấy giờ họ Thích Ca năm trăm người, tuy được Mục Kiền Liên cứu ra, song vẫn không toàn tính mạng. Về sau vua Lưu Ly bị đọa vào địa ngục. Oan oan tương báo khó có ngày dứt.” 

Đúng là câu chuyện do đức Phật kể như thế, nhưng vì sao Đức Phật kể câu chuyện này?  Đó là vì muốn độ chúng sinh nên phải phương tiện tuỳ thuận chúng sinh để độ.  Ngài muốn nói vấn đề nhân quả không thể tránh được, nhưng ở đây là nói với những chúng sinh thiếu niềm tin nhân quả nghiệp báo lúc ngài đương nói pháp. 

Trong kinh Đại Bảo Tích Ngài nói:  “Nầy Trí Thắng ! Hôm ấy ta nói với A Nan là ta đau đầu. Bấy giờ có ba ngàn Thiên Tử đoạn kiến, lại có vô lượng chúng sanh háo sát cùng tập họp chỗ Phật. Vì họ mà ta thị hiện nghiệp chướng nói rằng : Ta do thấy người khác sát sanh mà có lòng tùy hỉ nên mắc báo đau đầu. Nghe lời nầy có bảy ngàn trời và người được điều phục.

Ðây gọi là Như Lai phương tiện....” (Kinh Đại Bảo Tích, Phẩm 38 Tập 6 trang 523). Trong kinh khác -- Trụ Sứ Thập Hạnh -- Phật nói :  “Nói ta bị nhức đầu ấy chỉ là phương tiện mà thôi, thật tế thì ta có bị nhức đầu đâu !”   

Cũng như chuyện đức Phật ăn gạo lúa ngựa ba tháng là Ngài dùng sức phương tiện độ chúng sinh, chớ chẳng phải là nghiệp báo.  Đức Phật vì giáo hoá các chúng sinh ưa thích dục lạc, chẳng biết nghiệp báo, chẳng tin nghiệp báo,  nên thị hiện nhân duyên nghiệp báo chứ Như Lai thiệt không có nghiệp báo.  Ngài nói: “... Nầy Trí Thắng  ! Lại vì trong năm trăm Tỳ Kheo cùng Như Lai an cư ăn gạo lúa ngựa ấy có bốn trăm Tỳ Kheo hễ thấy ngon tốt thì sanh lòng tham dục. Các Tỳ Kheo nầy nếu ăn ngon thì thêm lòng dục.

Nếu ăn đồ thô xấu thì chẳng sanh lòng dục. Quá ba tháng an cư ấy rồi, bốn trăm Tỳ Kheo rời lìa tâm dâm dục chứng quả A La Hán.  Nầy Trí Thắng ! Vì điều phục năm trăm Tỳ Kheo và độ năm trăm Bồ Tát mắc báo súc sanh mà đức Như Lai dùng sức phương tiện thọ ba tháng ăn gạo lúa ngựa chớ chẳng phải là nghiệp báo. Ðây gọi là Như Lai phương tiện.  (Kinh Đại Bảo Tích Phẩm Thứ 38 Tập 6, trang 521). 

Chúng sinh nhiều bệnh, mỗi bệnh mỗi khác nhau nên thầy thuốc sau khi bắt mạch phải tuỳ theo căn bệnh mới ghi toa thuốc.  Đức Phật là một đại y vương, nên Ngài cũng tuỳ theo căn cơ, hoàn cảnh, nhân duyên, trình độ chúng sinh cao thấp mà phương tiện hoá độ.  Sở dĩ Ngài nói như vậy tại vì cuộc sống ở đó như vậy, con người thời đó như vậy và căn tánh của họ như vậy. Tuy nhiên, trong một pháp hội khác Ngài căn dặn chớ nên nói với những người căn cơ thấp về các phương tiện của Phật, Ngài nói:  “...

Vì chúng sanh chẳng rõ nghiệp nhơn cảm với quả báo, nên vì chúng sanh mà Như Lai thị hiện nghiệp báo như vậy. Tạo nghiệp ấy rồi mắc báo như vậy. Nghiệp kia được tạo rồi mắc báo như vậy. Chúng sanh nghe xong họ lìa nghiệp ấy mà tạo nghiệp kia : họ lìa ác nghiệp mà tu tập thiện nghiệp. Nầy Trí Thắng ! Nay đức Như Lai nói phương tiện rồi thị hiện phương tiện rồi, các phương tiện nầy phải giữ chặt cất kín chẳng nên nói với hạng người hạ liệt thiện căn kém mỏng ...(Kinh Đại Bảo Tích Phẩm Thứ 38 Tập 6, trang 526).

Nguồn tin: TVHS

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây