Nó là địa chỉ đỏ của cộng đồng người Hoa và cả người Việt tìm đến để cầu nguyện mỗi ngày. Ngôi chùa không quá bề thế nhưng không gian tâm linh uy nghiêm thoát tục cộng với những câu chuyện linh thiêng thường xuyên xảy ra khiến nó lúc nào cũng khoác lên mình chiếc áo bí ẩn và đầy lôi cuốn.
Chùa Minh Hương còn được gọi là chùa Ông hay chùa Quan đế thánh quân, tức theo tục thờ Thần tướng Quan Vân Trường từ trước đã in vào lối sống của người Hoa và cả người Việt hiện nay. Nó là một trong rất nhiều ngôi chùa Ông ở TP.HCM. Dù không thuộc loại nhất nhì về quy mô, nhưng theo khẳng định của nhiều người thì sự linh thiêng của chùa thì đã nức tiếng xa gần.
Nhiệm màu kỳ lạ
Chùa Minh Hương nằm ở số 184 Hồng Bàng, P.12, Q.5, TP.HCM, gọn ghẽ và khiêm nhường giữa những tòa nhà thương mại sầm uất. Trước cổng chùa có vài quầy bán nhang đèn vàng mã. Tất cả tuyệt nhiên trật tự và yên tĩnh. Hỏi ra mới biết không phải vì khách đến ít mà vì sự tôn nghiêm trật tự đã thành lề lối xưa nay. Nhà chùa lập một bãi giữ xe hoàn toàn miễn phí trước cổng. Khách đến, dù bất cứ ai cũng được hướng dẫn tận tình.
Đến chùa vào một buổi chiều mưa nặng hạt nhưng tôi thấy khách đến vẫn rất đông. Già trẻ lớn bé, trong ngoài nườm nượp, người quỳ lạy khấn vái, người thắp nhang khấn nguyện. Nhiều người cặm cụi trên những chiếc bàn, viết những lời khấn nguyện vào tờ giấy đỏ trước khi mang đi đốt, như một cách gửi lời cầu nguyện đến đấng linh thiêng. “Cháu cầu gì? Đến đây khấn nguyện là đúng địa chỉ rồi đó. Chùa này thiêng nổi tiếng thành phố”-bà Hoa, một phụ nữ ngoài 60 dáng người mảnh khảnh cười rạng rỡ nói với tôi. Thấy khách có vẻ ngấn ngứ, bà đon đả cười nói rồi dẫn luôn vào cổng chùa, đi sâu vào bên trong thăm quan như một hướng dẫn viên thật thụ. Bà cho biết người đến chùa cầu khấn nhiều thứ, từ sức khỏe tình duyên, đến con cái tiền tài... “Chỉ cần thành tâm gửi mong muốn đến Quan Ông, sẽ được chứng dám”-bà khẳng định. Bà cho tôi thêm nhiều phân tích thú vị khác. Rằng chùa ở thành phố này phân ra nhiều loại, có những ngôi chùa nổi tiếng và chỉ chuyên về một lĩnh vực cầu khấn nào đó, ví dụ như chùa cầu con, chùa cầu duyên, chùa cầu tài... Riêng chùa Ông này nổi tiếng thiêng ở tất cả các lĩnh vực nhưng cũng được người ta tự quy định với nhau là nơi cầu an và cầu tài. Mỗi dịp lễ tết, chùa nêm chặt hàng ngàn người.
Khấn nguyện ở chánh điện thờ Quan Thánh Đế.
Có lẽ vì thế mà lượng khách đến đây, rất nhiều người thuộc giới kinh doanh làm ăn hoặc đang có những trắc trở về sức khỏe. “Chuyện gì không biết nhưng nhiều người cầu tài ở đây đã được chứng giám rồi đó. Có người làm ăn thành đạt, mỗi năm vào lễ thay áo cho Quan Ông đều cúng vàng thật”-bà Hoa kể. Hồi trước có nhiều người nghèo khổ đến khấn nguyện được Ông chứng giám, rất nhiều trong số họ tháng nào cũng quay lại lễ tạ. Vì vậy, chùa ngày càng nổi tiếng về việc cầu tài. Bà Hoa hình như rành rẽ mọi chuyện về chùa Ông này. Hỏi ra mới biết bà ở gần chùa, ngày nào cũng vào chùa. Lâu dần đã thành một thói quen. “Dì đã luống tuổi, gia đình con cái thành đạt cả rồi. Vào đây chỉ xin cho tâm tĩnh, sống lâu với con cháu thôi. Không mưu cầu điều gì khác”- bà nói.
Một vòng đại sảnh ngôi chùa uy nghiêm, tôi ấn tượng với một người đàn ông ngồi trên chiếc bàn nhỏ hý hoáy viết những dòng chữ lên các tấm giấy màu đỏ bằng chữ Hán. Hỏi thì ông nói rằng đó là những ý nguyện, tâm thư mà gia đình ông gửi đến quan Ông. “Chuyện người khác chú không biết đúng sai. Nhưng chuyện nhà chú thì chắc chắn đã được Ông phù hộ”-người đàn ông tên A Tiểu, năm nay ngoài lục tuần tâm sự. Gia đình ông buôn bán ở chợ Bình Tây. Hai vợ chồng lấy nhau nhiều năm nhưng chưa có con. Đến năm 1982, họ mang thai con gái đầu lòng. Chưa kịp vui mừng thì sau khi mang thai được một tháng, vợ ông bỗng nhiên bị á khẩu. Gia đình lo lắng chạy chữa khắp nơi nhưng không khỏi. Ông đến nhiều bệnh viện khám cho vợ nhưng không thể biết nguyên nhân. Họ chạy chữa bằng thuốc bắc, bùa ngãi ở khắp thành phố nhưng bệnh tình bà không thuyên giảm, thậm chí còn nặng thêm. Lúc đó có người mách bảo nên ông tìm đến chùa này thắp nhang khấn nguyện. Thật kỳ lạ, chỉ hai ngày sau bà hết bệnh, nói chuyện lại bình thường. Nửa tháng sau thì bà hạ sinh cháu gái khỏe mạnh, mẹ tròn con vuông. Ông bà sau này có thêm một người con trai nữa cũng khỏe mạnh, bà không tái phát căn bệnh kỳ lạ đó nữa. Mấy chục năm qua, tháng nào ông cũng vào chùa một lần để khấn nguyện, cũng là để đáp tạ ơn thiêng phù trợ.
Huyền bí và linh thiêng
Theo sự giới thiệu của nhiều người, tôi được gặp bà Điệp, người coi sóc của ngôi chùa đặc biệt này. Chùa được lập cách đây hàng trăm năm. Bà cùng nhiều anh em khác thuộc thế hệ thứ tư đang trông giữ chùa. Bà cho biết, đời ông sơ bà cách đây nhiều năm từ Trung Quốc sang buôn bán, lấy vợ người Việt. Sau đó ông xây ngôi chùa này cho cộng đồng người Hoa nên còn có tên gọi khác là Hội quán An Hòa. Dần dà, chùa không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của người Hoa, mà cả người Việt cũng tìm đến rất đông. Hỏi về sự linh thiêng của chùa Ông, bà Điệp lắc đầu cười rất hiền. “Nói cầu gì được nấy thì có phần hơi quá. Không có nơi nào kỳ lạ như vậy cả. Có thành quả hay không, còn tùy thuộc vào đức độ của mỗi người nữa”-bà nói. Chùa thờ Quan Công, nên người đến phải biết Trung Hiều Tiết Nghĩa là cái lẽ sống ở đời. Chuyện nhiều người đến chùa cầu nguyện rồi trúng số bà không khẳng định nhưng cũng không phủ nhận. Năm nay 61 tuổi, bà theo mẹ về ở trong chùa này từ năm 1968. Hồi trước, ở tất cả các chùa Ông đều có tục xin xăm. Trước đây, người đến chùa khấn viếng đều xin cho mình một quẻ thăm. Bà chứng kiến nhiều người bệnh nặng, chữa hoài không khỏi. Sau khi xin xăm, được quan Ông chỉ cho đúng hướng đi, tìm đúng người điều trị mà tai qua nạn khỏi. Thậm chí có người định bán nhà, đến xin xăm, được ông cho quẻ không được bán. Người này quay lại kể với bà, nhờ giữ lại được căn nhà đó mà gia đình làm ăn phát đạt.
Tôi tò mò hỏi việc chăm sóc hương đèn cho một vị thánh linh thiêng như vậy có khó không? Bà cười rất hiền nói rằng gia đình bà ở sau lưng chùa, việc chăm sóc trông coi đã truyền đời nhiều thế hệ. Mỗi ngày, họ thay nhau thắp nhang cầu nguyện đều đặn để Quan Ông chứng dám lòng thành. “Công việc không quá vất vả. Có điều phải lưu ý giữ gìn đồ đạc bên trong, không để ai mạo phạm. Vì phạm tới Quan Ông là mắc tội rất lớn”-bà Điệp kể. Năm trước, kẻ trộm đột nhập vào chùa từ trên mái, cạy lấy đi nhiều tượng, bình bằng sành sứ cổ quý hiếm. Trộm đột nhập nhiều lần, nhà chùa lại không có người sức vóc trông coi nên gần như chịu trận. Dù đã báo công an nhưng tung tích bọn trộm vẫn nan giải. Bà cùng các anh em quỳ lạy, khấn vái mong quan Ông chứng dám xá tội. Kỳ lạ thay, ngay tối hôm sau, bọn trộm đột nhập nhưng không lấy được bất kỳ thứ gì. Không những thế, chúng còn để lại dấu vết rất rõ ràng. Công an lần theo dấu vết điều tra, bắt được băng trộm khét tiếng ở Q.4, chuyên đột nhập đình chùa miếu mạo, ăn trộm cổ vật. Đồ đạc được trả lại, nhà chùa đặt lại đúng vị trí. Từ đó, không còn kẻ trộm nào dám bén mảng đến chùa Ông nữa.
Bên trong chùa Ông.
Tôi chợt nhận ra, chùa Ông quá đẹp. Từ cổng vào đến mái vòm đều có hoa văn dày đặt, những bức tượng tả cảnh sinh hoạt chốn tiên. Cuối hai mái vòm cong vút lại có tượng ông Tơ bà Nguyệt vươn tay. Bên dưới những tượng ấy lại nhác thấy bóng vài nam thanh nữ tú, hình như tìm đến cầu duyên thì phải. Chánh điện chủa là bức tượng Quan thánh Đế mặt đỏ râu dài, áo bào uy nghi. Tả hữu Quan Ông lại có tượng thờ 5 bà Ngũ Hành và ông Bổn Địa. Theo những người Hoa đến viếng thì ngoài Quan Công thì ông Bổn Địa là người coi sóc một vùng đất đai rộng lớn, ban phát lộc tài cho nhân gian. Tượng Bồ Tát nằm ở bên trái khuôn viên chùa, cao vút và uy nghiêm trong nhang khói nghi ngút. Tôi ấn tượng hơn với tượng ngựa Xích Thố đặt một bên đại sảnh chùa. Ông Mã-theo cách gọi của nhà chùa-màu đen, cuộc cơ bắp, mũi to và đầu được trang trí nhiều vật phẩm rất đẹp mắt. Người đến chùa, sau khi khấn lạy Quan Ông và các chư vị thần linh, không quên thắp nhang trước tượng Ông Mã như một thủ tục bắt buộc trong tín ngưỡng chùa Ông.
Chùa Minh Hương do nhánh người Hoa Minh Hương sinh sống tại vùng Chợ Lớn, là những người Hoa lấy vợ là người Việt xây dựng từ năm 1902. Với lối kiến trúc chủ yếu bằng gốm và gỗ, trên đỉnh là mô hình phù điêu thu nhỏ bằng gốm sứ và phù điêu nghệ thuật cổng Tam quan cùng những hoa văn khu chính điện. Bên trong còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ có giá trị như: tượng thờ bằng gổ lim có niên hạn trên 300 năm, lư hương kiểu cổ, trống, sư tử đá, giá trưng kích thương. Đặc biệt có 3 tủ thờ hiện vật trưng bày trang trí bằng đồng và các bộ bàn, ghế, giường đồ gổ từ đời nhà Thanh Trung Quốc.
Chùa có rất nhiều chỗ dát đồng, ánh lên một thứ ánh sáng vàng lung linh. Từ sảnh điện đến khuôn viên có treo hàng trăm cây nhang vòng hình chóp rất đẹp và thơm nức. Mỗi cây nhang phải mất một tuần mới cháy hết. Những cây nhang màu đỏ chụp xuống đầu cho người ta một cảm giác huyền diệu, tĩnh tâm đến lạ thường. Chùa Ông được đã được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Thành phố nhiều năm trước. Nhưng có lẽ không gian huyền diệu và những câu chuyện linh thiêng mới chính là những điều làm nó trở nên nổi tiếng đến vậy.