Dạ Há được người dân đặt tên cho hòn đá tự nhiên, cao
chừng 1 m, chân đế đường kính khoảng 1m nằm ngay ở chân núi. Còn trong
các câu chuyện dân gian Mường thì Dạ Há là con vật ác, con vật này thường ăn thịt
người. Tượng Dạ Há ở phía Đông
Ông Bùi Văn Nhưởng, người Mường xóm Mận năm nay đã gần
80 tuổi, sống ở xã Văn Sơn (Lạc Sơn) kể ba năm làm hội một lần trên núi Khêng
vào tháng rằm tháng hai lúc trăng non: Hội vui lắm, mổ một trâu, một lợn cả
làng lên núi ăn trong hai ngày hai đêm. Trước hội là lễ múc nước cho vua ở giếng
tại ruộng Tình Khêng. Bình thường mùa hạn giếng này không hề có nước, chỉ có một
lỗ nhỏ như lỗ cua.
Bố tôi sai tôi đi lấy đất để be xung quanh cái lỗ đấy lên,
tôi bảo: “Có quái gì nước mà be hở bố?”. Bố tôi lừ mắt bảo: “Cứ ra mà làm”. Ban
ngày tôi ra đắp, be giếng tử tế. Mười hai giờ đêm hôm đó, bố tôi bảo ra lấy nước
về đóng rượu cần cho vua uống, tôi cãi, ban ngày ra be bờ giếng có nước đâu, bố
tôi bảo cứ ra mà lấy. Ra đến nơi, kỳ lạ thay nước đầy và trong vắt, mát lắm…
Hòn Dạ Há xưa kia có chiếc lưỡi bằng đá to bằng cái
dép tông, về sau bị người nào nghịch ngợm lấy mất. Trước hội, dân làng treo tảng
thịt lợn vào cổ tảng đá, lấy bốn cái đòn buộc bằng chão chòng vào. Nhà thầy
cúng sau khi gieo quẻ âm dương, ông Dạ Há muốn quay hướng nào đông, tây, nam bắc
thì quẻ phải một sấp một ngửa. Gieo quẻ xong ông thầy cúng khấn: “Hôm nay ông
muốn đi ăn hướng nào?”. Bốn thanh niên khỏe cầm đòn xoay hòn đá. Mồm Dạ
Há quay hướng nào thì hướng đó người hay bị ốm đau, chăn nuôi súc vật, trồng trọt
hay bị dịch bệnh.
Lạ nữa là xã mình không bao giờ bị nhưng các xã
khác là bị. Năm đấy quay về hướng Thượng Cốc, ở đó bệt quá, không làm ăn gì được,
sợ quá họ bèn cử nhiều người lên quay trộm. Quay mãi cũng không được, cho Dạ Há
ăn thịt cũng không quay được…Lúc đó tôi chưa vợ, cũng được cử ra để quay đá. Có
nhiều người đã thử xoay khi không cúng, không cho Dạ Há ăn thịt lợn thì
không thể xoay được còn cúng rồi, cho ăn thịt rồi bốn người quay dễ, chỉ nặng
hơn cối xay lúa một ít.
Ở núi Khêng còn có ngôi chùa thiêng lắm. Hồi trước
có một anh du kích ở Tân Lạc bị Pháp bắn gẫy chân, máu chảy chạy bò lê vào gần
nhà chùa, khấn: “Các ngài thương con không chạy được chỉ có chết”. Pháp cứ theo
vết máu mà tìm nhưng cuối cùng không biết đi đâu vì không còn dấu nữa. Hôm sau
hai anh em trong tổ tam tam cáng anh du kích đi khỏi chùa”.
Ngoài lễ lớn ba năm một lần, hàng năm lễ nhỏ vào rằm
tháng hai, tháng bảy, tháng tám mỗi nhà cúng một con gà hoặc góp tiền làm một
con lợn cúng xong, ăn luôn. Người dân thường trồng ngô, trồng lúa. Mường Khêng
có hai cánh đồng Bàn Cờ và đồng Khêng. Vào hai thời điểm rằm tháng hai và rằm
tháng bảy nông nhàn trời cũng ít nắng, mưa nhiều thuận lợi cho sâu bọ phát triển.
Người Mường hay nói đây là thời điểm “chổ cảnh rôi ke” nghĩa là châu chấu cắn,
sâu ke cắn. Nhẹ thì vàng lụi lá, nặng thì đổ cây ngổn ngang. Tháng bảy, lúa vừa
lên một gang, sâu bọ xuống ăn lúa, có năm ăn nhiều lắm.
Mỗi khi như vậy ông từ Cố ở chùa Khênh họp dân làng lại
và bảo: “Năm nay mùa màng sâu bọ nhiều quá, phải cúng các ngài để sâu bọ khỏi
phá”. Mỗi nhà cúng một con gà. Làm xong buổi chiều, tối ngủ một giấc, sáng mai
ra chim sáo ở trong núi đá bay ra đầy đồng đã nhặt hết sâu bọ. Tôi theo cách mạng
nhưng điều này lại tin vì chính mắt mình thấy có nhiều chim sáo về nhặt sâu vậy.
Lại nói về hội. Hội khi đó đông người tham gia lắm! Họ
kéo một dải vải dài cỡ 20 mét có bốn chữ nho “Bình yên thiên bảo” cầu bình yên,
no ấm đi xung quanh cái chùa Khêng. Thầy nho đi trước, thầy cúng đi thứ hai, những
người cầm lọng, cầm cờ và dân đi sau rốt. Hòn đá xoay từ hồi kháng chiến chống
Pháp là không mở hội, không xoay nữa, ngay cả cái đình giờ cũng bị san phẳng.
Anh Bùi Văn Mẩng nhà ở gần cái giếng xưa bảo có tới 3
cái lỗ giếng là giếng Biệng, giếng Khường, giếng Lở Lác. Giếng Lở Lác ai mà tắm
y như rằng bị lở, lác toàn thân. Giếng Khường để lấy nước cúng vua trong lễ hội.
Chính mảnh đất có giếng nhà anh Mẩng, chính anh đào ao, lấp giếng rồi chặt những
cây si, cây duối cổ thụ xung quanh giếng. Tự dưng gia đình lục đục, con cái ốm
đau, sợ quá, anh Mẩng bèn đem mảnh đất cho chị Quách Thị Chiên là chị dâu họ
làm nhà, sinh sống.
Cứ như lời chị Chiên: Việc làm ăn cứ vào rồi lại ra hết
còn sức khỏe của cả nhà cứ lao đao. Ngay như tôi lúc đau đầu, lúc mỏi chân tay,
khi quặn ruột còn chồng tôi cũng bị tai nạn mất năm 2003. Đi xem thầy hết thầy
nọ đến thấy kia người ta bảo đó là phạm vào giếng thiêng nên phải chuyển nhà
đi, nhưng biết chuyển đi chỗ nào, nhà thì mới xây làm sao nhổ đi được. Sát chỗ
cái lấp mấy cái giếng tôi cất cái chuồng lợn, nhưng mua lợn về nuôi thế nào về
sau nó cũng chỉ bằng ấy, chậm lớn lắm! Các ô chuồng cách cái giếng mấy mét thì
lợn cũng lớn gọi là tạm được.
“Chị Chiên kể tiếp: Một câu chuyện kỳ lạ chính mắt tôi chứng kiến là cách đây hơn hai năm,
khi tết tôi mổ một con lợn trên 30 kg ở cạnh cái giếng đào tro.ng sân, lúc mổ
giếng còn đầy tràn nước, chưa cạo xong lông lợn thì bơm không lên nổi một giọt
vì đã cạn ráo tự lúc nào. Sợ quá tôi nhờ bà mỡi (một dạng thầy cúng) Bùi Thị
Ninh ở cùng xóm cúng một lúc, nước lại dâng lên đầy, lại cạo lông, mổ lợn tiếp”..
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự