Hiếu hạnh từ điểm nhìn văn hóa Nho giáo & Phật giáo

Thứ sáu - 23/01/2009 11:11
Có thể nói văn hóa tình người của nhân loại được bắt đầu từ tình phụ mẫu đối với con cái.Nó chính là kết quả ươm mầm, ra hoa kết trái của những hạt giống yêu thương của một mối tình nồng nàn không có một bút mực nào mô tả cho tường tận. Thế nên, trong dòng chảy văn hóa tình người, xưa nay con người không ngừng suy nghiệm và thực thi tâm hiếu hạnh như là thông điệp sống có ý nghĩa nhân văn cao cả, trên hết là hướng đến giải thoát khổ đau. Do đó, ta chẳng ngạc nhiên gì, các học thuyết, giáo lý triết lý hiện hữu ở đời đều được xây dưng trên nền tảng từ tâm hiếu hạnh. Bài viết này chỉ đề cập đến “Hiếu hạnh từ điểm nhìn văn hóa Nho giáo và Phật giáo”.

Kinh Thi, một trong những bản kinh cổ xưa của Nho giáo đã không ngần ngại tuyên ngôn “Hiếu đạo” là cơ sở thiết lập, mở đầu văn hóa tình người một cách thiết thực mà ai cũng có thể cảm nhận: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực” (Cha sinh ta ra, mẹ bồng bế ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo đáp ân sâu, khác nào trời cao khôn lường). Rõ ràng, cội rễ văn hóa con người được kết tinh bằng tình thương cha mẹ dành cho con cái. Hay nói cách khác, khi tâm hiếu chảy đến đâu tình người hóa hiện đến đó. Cho dù bạn là ai, từ đâu đến, tất cả đều đi không ra khỏi cuộc hành trình bất tận mà phụ mẫu đã đi qua mà kinh điển xưa nay đúc kết với chín chữ “cù lao”: Sinh (đẻ ra), Cúc (nâng đỡ), Phủ (vuốt ve), Súc (nuôi cho bú mớm), Trưởng (nuôi cho khôn lớn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom), Phục (xem tính tình mà bảo ban), Phúc (bảo vệ).

Từ đây, con người thăng hoa nhờ sự nuôi dưỡng trong vòng tay của mẹ, sự nghiêm trì giáo dưỡng của cha mà cất bước chân đi vào đời, làm sáng tươi, tô điểm cho đời. Cho nên, chương đầu của kinh Hiếu ghi nhận: “Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã. Lập thân hành đạo, dương danh hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã” (Hiếu là căn bản của đức, giáo hóa từ chữ hiếu mà ra. Bước đầu của đạo hiếu là phải giữ mình, vì thân thể, tóc, da của ta có từ cha mẹ, nên không dám làm tổn thương đến. Lập thân hành đao, để lại được tiếng thơm muôn thuở làm rạng rỡ đức hạnh của cha mẹ, đó là cái đích của đạo Hiếu).

Thực tế ở đời, tất cả sự thành tựu của mỗi cá thể đều xuất phát từ tâm hiếu. Một người có hiếu thảo với mẹ cha thì mới có sự liên hệ thân thiện với những người xung quanh. Nói rộng ra, một người có tâm hiếu chí thành thì mới có sự hiếu để với cha mẹ, sự tôn kính với bà con dòng họ, sự kết nghĩa keo sơn của tình huynh đệ tỷ muội, sự chung thủy với người tình trăm năm, chung sống hòa thuận với làng xóm, thân thiện với cộng đồng xã hội.

Thế nên, Khổng Tử từng nói: “Đạo hiếu bắt đầu từ việc thờ cha mẹ, kế đến là thờ vua giúp nước và sau cùng là lập thân”. Đó chính là suối nguồn văn hóa mà mỗi cá nhân hiện hữu ở cõi đời này đều khát khao thực thi. Lịch sử từng ghi nhận một người được tiếp nhận nguồn giáo dục khởi đầu bằng sự hiếu thảo với mẹ cha thường là người nô lực đóng góp cho đất nước. Và như thế, đây chính là mẫu người trung hiếu lưỡng toàn của mỗi gia đình, của mỗi quốc gia dân tộc.

Trang Tử còn khai mở đạo Hiếu rộng ra để mỗi người có điều kiện thực thi qua 3 điều: “Đạo Hiếu có ba: Đại hiếu là tôn kính cha mẹ, kế là không làm cho cha mẹ mang tiếng nhục, sau cùng mới là nuôi dưỡng”. Xem ra, trong ba điều, điều thứ nhất là điều giữ vai trò thiết yếu, nó quyết định sự hình thành nhân cách con người. Con người có trưởng thành và thăng tiến bắt đầu từ sự tôn kính, tôn thân. Bổn phận người con hiếu hạnh là phải biết thương yêu và kính trọng cha mẹ. Cho dù không gian thay đổi, thời gian có trôi đi, con người có thành đạt công danh đến vị trí nào trong xã hội thì sự hiếu thảo với cha mẹ cũng không bao giờ đổi thay. Đây chính là đại hiếu. Cho nên, khi cha mẹ hiện tiền cho đến khi mẹ cha nhắm mắt xuôi tay, bổn phận con cái cũng phải luôn tỏ lòng tôn kính, tôn thân phụng thờ cha mẹ, phải làm cho cha vui lòng, hoan hỷ. Câu chuyện vua Thuấn xưa kia, chắc mọi người còn nhớ. Chuyện kể vua Thuấn bình sinh vì không làm vui lòng được người cha ương ngạnh và người mẹ không hiền thục, khi được vua Nghiêu nhường ngôi, cũng không cảm thấy ngôi vua là cao quý. Hay vua Hán Linh Đế đích thân sắc thuốc dâng cho mẹ mỗi khi ốm đau, mặc dầu việc nước vô cùng bận rộn…

Điều thứ hai mà Trang Tử muốn đề cập đến đạo Hiếu là không làm cho cha mẹ bị mang tiếng nhục. Cho nên, bổn phận người con có hiếu phải biết giữ gìn thanh danh cho cha mẹ. Điều này có nghĩa thanh danh của cha mẹ cũng chính là thanh danh của chính mình. Do đó, người con phải biết sống đạo đức mà học thuyết Nho gia khuyến cáo theo tinh thần Tam cương, Ngũ thường, Tam tùng, Tứ đức, Phụ từ, Tử hiếu, Phu xướng phụ tùy để thiết lập các mối quan hệ giữa người với người ngày càng tốt hơn, không nên vì danh lợi thực thùy mà cha mẹ phải tủi nhục vì con cái. Mạnh Tử từng khuyên “Hay đánh nhau đấu thắng với mọi người mà làm cho cha mẹ mang tiếng xấu là một điều bất hiếu. Có như thế mới tạo ra sự hòa thuận, vui vẻ và bình an trong đời sống bình nhật.

Cũng từ nguyên lý giữ đạo hiếu của điều thứ hai mà học thuyết Nho gia còn mở rộng khái niệm này ra trên diện rộng với các mối quan hệ khác nhau từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội với những công ước về nghĩa vụ và trách nhiệm làm người. Thế nên, Tăng Tử dạy rằng “Cư xử không đoan trang là bất hiếu. Thờ vua mà không trung là bất hiếu. Gặp quan không kính là bất hiếu. Không giữ tín với bạn bè là bất hiếu. Ra trận không có lòng dũng cảm là bất hiếu”. Tóm lại, những hành vi nào của mỗi cá nhân mà làm cho cha mẹ phải bị tiếng xấu, chịu nhục với đời đều được quy về tội bất hiếu.

Điều thứ ba mà Trang Tử khuyên đạo làm người là phải biết nuôi dưỡng, phụng dưỡng cha mẹ như là bổn phận trách nhiệm của người con có hiếu nào ở đời này. Điều này khiến chúng ta càng thấy lời khuyên của Khổng Tử càng thấm thúy hơn bao giờ hết, nhất là trong văn hoa ứng xử với cha mẹ: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí ưu, tang tắc trí ai, tế tắc trí kỳ nghiêm” (Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở cư xử phải cực kỳ cung kính, nuôi dưỡng cha mẹ hết sức vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết lòng, khi lo việc ma chay phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải rất mực trang nghiêm”. Do đó, sự hiếu thuận không chỉ báo đáp bằng việc cung phụng vật chất đầy đủ mà còn cả bằng sự nhiệt tâm tinh cần đối với cha mẹ.

Ngay cả khi trở thành người khá giả, sự thờ phụng cha mẹ không phải do người giúp việc lo lắng mà đích thân chính mình chăm chút từng miếng ăn, chỗ ở, kể cả việc thực thi những điều mà cha mẹ nghĩ đến nhưng không tiện nói ra. Cha mẹ qua đời không chỉ lo hậu sự mà cũng biết hướng nghĩ đến cha mẹ như khi phụ mẫu còn sinh tiền, nhất là thực thi những tâm nguyện mà cha mẹ phó thác. Rõ rang đạo Hiếu mà Nho giáo thiết lập sẽ có tác động vào quá trình hình thành và phát triển văn hóa con người trên mọi lĩnh vực.

Phật giáo truyền vào nước ta với nền giáo lý cũng được thiết lập trên cơ sở suối nguồn của tâm hiếu. Chính Đức Phật từng nói tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Trong kinh Tương Ưng, Phật còn nói “Vô thỉ luân hồi, tất cả chúng sinh từng làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị, là bà con quyến thuộc trong các nẻo đường sinh tử”. Xem ra, giáo lý nhà Phật thiết lập nền văn hóa cho nhân loại cũng khởi đầu bằng việc tiếp nhận văn hóa hiếu hạnh. Đạo lý giải thoát khổ đau, chứng ngộ Niết bàn cũng bắt đầu từ đây. Nếu Kinh Thi nói tóm tắt công đức cha mẹ qua chín chữ Cù lao như trên thì kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân trình bày công ơn sinh thành của cha mẹ và giải trình phương pháp báo đáp ân đức phụ mẫu một cách rốt ráo và cụ thể rõ ràng hơn. Có thể nêu ra đây 10 công đức của mẹ đối với con cái: 1. Chín tháng cưu mang khổ nhọc, 2. Sợ hãi, đau đớn khi sinh, 3. Nuôi con cam đành cực khổ, 4. Nuốt cay, mớm ngọt cho con, 5. Chịu ướt, nhường ráo cho con, 6. Sú nước, nhai cơm cho con, 7. Vui nhặt đồ dơ cho con, 8. Thương nhớ khi con xa nhà, 9. Có thể tạo tội vì con, 10. Nhịn đói cho con được no.

Kinh Tăng Nhất A Hàm còn ghi lại lời dạy của Phật về công ơn sâu dày của cha mẹ thật cao hơn trời, sâu hơn biển cả, đồng thời khuyên con người phải biết tri ân và báo ân với cha mẹ: “Này các thầy Tỳ kheo, nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi xa nghìn dặm, cung phụng đầy đủ mọi thức ăn, đồ mặc, chăn đệm và thuốc thang, thậm chí du cho cha mẹ có tiểu tiện trên vai mình đi nữa, cũng chưa trả được ân sâu. Các thầy phải hiểu rằng ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành. Vì thế mà biết ân khó trả. Này các thầy Tỳ kheo, có hai việc làm cho phàm phu được công đức lớn, được quả báo lớn, đó là phụng sự cha và phụng sự mẹ”.

Phật giáo truyền vào nước ta với nền giáo lý cũng được thiết lập trên cơ sở suối nguồn của tâm hiếu. Chính Đức Phật từng nói tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Trong kinh Tương Ưng, Phật còn nói “Vô thỉ luân hồi, tất cả chúng sinh từng làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị, là bà con quyến thuộc trong các nẻo đường sinh tử”. Xem ra, giáo lý nhà Phật thiết lập nền văn hóa cho nhân loại cũng khởi đầu bằng việc tiếp nhận văn hóa hiếu hạnh. Đạo lý giải thoát khổ đau, chứng ngộ Niết bàn cũng bắt đầu từ đây. Nếu Kinh Thi nói tóm tắt công đức cha mẹ qua chín chữ Cù lao như trên thì kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân trình bày công ơn sinh thành của cha mẹ và giải trình phương pháp báo đáp ân đức phụ mẫu một cách rốt ráo và cụ thể rõ ràng hơn. Có thể nêu ra đây 10 công đức của mẹ đối với con cái: 1. Chín tháng cưu mang khổ nhọc, 2. Sợ hãi, đau đớn khi sinh, 3. Nuôi con cam đành cực khổ, 4. Nuốt cay, mớm ngọt cho con, 5. Chịu ướt, nhường ráo cho con, 6. Sú nước, nhai cơm cho con, 7. Vui nhặt đồ dơ cho con, 8. Thương nhớ khi con xa nhà, 9. Có thể tạo tội vì con, 10. Nhịn đói cho con được no.

Kinh Tăng Nhất A Hàm còn ghi lại lời dạy của Phật về công ơn sâu dày của cha mẹ thật cao hơn trời, sâu hơn biển cả, đồng thời khuyên con người phải biết tri ân và báo ân với cha mẹ: “Này các thầy Tỳ kheo, nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi xa nghìn dặm, cung phụng đầy đủ mọi thức ăn, đồ mặc, chăn đệm và thuốc thang, thậm chí du cho cha mẹ có tiểu tiện trên vai mình đi nữa, cũng chưa trả được ân sâu. Các thầy phải hiểu rằng ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành. Vì thế mà biết ân khó trả. Này các thầy Tỳ kheo, có hai việc làm cho phàm phu được công đức lớn, được quả báo lớn, đó là phụng sự cha và phụng sự mẹ”.

Như con sông tuôn chảy về biển cả, tâm hiếu hạnh cần phải hóa hiện từ trong những trái tim biết yêu thương va khối óc bừng sáng trí tuệ trong văn hóa tình người. Nó cần phải được bất cứ ai hiện hữu ở cõi đời này hành trì hiếu hạnh không chỉ trên phương diện cung phụng vật chất mà cả phương diện thực nghiệm tâm linh như là một lô trình tự chứng tự nội. Nó là sợi dây kết nối sự yêu thương và chung sống hòa bình của nhân loại. Cho nên Phật giáo ngay từ khi mới du nhập, đã đề xuất thông điệp về đạo Hiếu như là thông điệp thực thi hạnh nguyện tự độ va độ tha trong việc hoằng dương Chánh pháp. Mục đích cuối cùng là không ngoài việc khuyến cáo con người không chỉ hoàn thiện nhân cách mà còn giúp con người biết quý trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em, hòa thuận với mọi người trong xã hội và không ngừng nỗ lực tích cực đóng góp cho đất nước, cho đời, cho đạo. Chính Mâu Tử, người tiếp thu giáo lý nhà Phật ở thế kỷ thứ II sdl, từng phát biểu trong tác phẩm Lý hoặc luận khi ông trả lời cho giới trí thức Nho gia về con đường chánh đạo của Phật giáo chính là đạo Hiếu:“Ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì cứu dân độ thế, khi ngồi một mình thì tu thân”.

Rõ ràng, ngay vế thứ nhất của đạo Hiếu mà Mâu Tử đề xuất là mỗi người tự thân phải hiếu thảo với cha mẹ. Vì phụ mẫu là đấng sinh thành ra chúng ta, khổ nhọc nuôi dưỡng ta nên người. Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật ví dụ công đức của cha mẹ như núi cao biển rộng sông dài: “Ân cha lành cao như núi Thái, Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi. Dù cho dâng trọn một đời, Cũng không trả hết ân người sinh ra”. Sự đền ơn đáp nghĩa cho cha mẹ không gì hơn là phải thực thi 5 điều mà kinh Thi Ca La Việt ghi: 1. Cung kính và vâng lời cha mẹ, 2. Phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu, 3. Giữ gìn thanh danh và truyền thống gia đình, 4. Bảo quản tài sản do cha mẹ để lại, 5. Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời. Ngoài ra Đức Phật còn đề cập bốn trách nhiệm để hướng dẫn cha mẹ sống đúng theo Chánh pháp: 1. Nếu cha mẹ không có niềm tin, khuyến khích cha mẹ phát tâm tin tưởng Tam bảo, 2. Nếu cha mẹ xan tham, khuyên cha mẹ phát tâm bố thí, 3. Nếu cha mẹ làm ác thì khuyên cha mẹ hướng tâm làm việc thiện, 4. Nếu cha mẹ theo tà kiến thì khuyên cha mẹ theo chánh kiến. Đây chính là hiếu hạnh mà đạo Phật chủ trương trong dòng chảy văn hóa dân tộc.

Ở vế thứ hai mà Mâu Tử đề xuất thực thi tâm hiêu hạnh là cần thiết lập các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng trong việc tham gia tích cực đóng góp cho xã hội, cho quốc gia dân tộc. Hay nói cách khác đã là người Phật tử phải sống theo hạnh nguyện lý tưởng Bồ tát, đô mình chính là độ người. Nghĩa là khi tâm hiếu của mỗi cá nhân hiện hữu hướng tâm chảy vào từng thành viên trong cộng đồng đó chính là tình đồng bào; khi nó tuôn chảy vào quốc gia dân tộc thì sẽ hóa hiện tấm lòng trung với nước và hiếu với dân. Tại đây, tâm hiếu chính là sự thực thi hạnh nguyện sống theo tinh thần Tứ ân, trong đó ân quốc gia được chú trọng hàng đầu mà tham gia tích cực xây dựng quê hương xứ sở, yêu nước chính là yêu đạo.

Ở vế thứ ba, ta thấy Mâu Tử khuyến cáo mọi người là khi ngồi một mình là biết tu thân. Tu thân chính là thực thi hạnh hiếu bằng cách sống theo tinh thần của một Phật tử chân chính mà bản kinh Đại báo phụ mẫu ghi: 1. Giữ gìn Tam quy, Ngũ giới, 2. Thường học hỏi và đọc tụng kinh điển, 3. Siêng năng lễ Phật sám hối, 4. Thường cúng dường Tam bảo, 5. Bố thí làm phước, hồi hướng công đức cho cha mẹ, 6. Cúng dường chư Tăng trong ngày Tự tứ.

Thông điệp của đao Phật chính là thông điệp đạo Hiếu. Giá trị thiết thực của thông điệp này không chỉ mang tính nhân văn cao cả mà còn là cơ sở để hướng tâm giải thoát. Một người hiếu thuận với mẹ cha thì chắc chắn sẽ có kết quả của một đời sống bình an nội tại ngay trong đời này, khi lâm chung sẽ sinh vào nơi cảnh giới an lành. Nhưng quan trọng hơn, nó bảo lưu mọi giá trị văn hóa truyền thống, sự kết nối giữa người còn kẻ mất theo nguyên lý Duyên khởi: “Hiếu thuận hoàn sinh hiếu tử, Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi. Bất tín đãn khán thiềm đầu thủy, Điểm điểm trích trích bất sai di” (Nếu mình hiếu thảo với mẹ cha, Mai sau con hiếu với ta khác gì. Nếu mình ăn ở vô nghì, Đừng mong con thảo làm gì uổng công. Kìa xem giọt nước xuôi dòng, giọt sau, giọt trước cũng đồng một nơi).

Cuộc sống thật là nhiệm mầu, từ trong thực tính duyên khởi, tâm hiếu cứ thế mà vận hành trong từng trái tim con người. Vu lan là dịp mọi người tiếp nối cho dòng chảy văn hóa hiếu hạnh càng ngày càng phát triển và nhân rộng. Có gì đẹp hơn khi mọi người biết sống yêu thương nhau nhiều hơn để cùng nhau sẻ chia những khó khăn, vượt thoát những khổ đau của thân phận kiếp người. Trong ý nghĩa đó, Vu lan nơi hội tụ của những dòng chảy văn hóa khác nhau, nhưng điểm chung là ở đó tâm hiếu của mỗi người được làm hiển lộ thành hoa thơm quả ngọt dâng cho cha mẹ hiện tiền, tứ ân phu mẫu, lục thân quyến thuộc, cho đồng bào, cho quê hương xứ sở của chính mình.

Tác giả bài viết: Thích Phước Đạt

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây