Năm 1836, vua Minh Mạng chia các phi tần làm 9 bậc gọi là “cửu giai” (chữ giai nghĩa là đẹp), bậc cao nhất là “nhất giai”, cao hơn cả “cửu giai” là Hoàng Quý phi, rồi đến cao nhất là Hoàng hậu. Sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” viết: “Trên nhất giai, đặt một hoàng quý phi để giúp hoàng hậu là ngôi chủ quỹ trong cung, giữ nội chính cho được tề chỉnh”.
Lăng vua Minh Mạng. (Ảnh: Tim Hill, Flickr, Wikipedia, CC BY-SA 2.0).
Nhưng thực tế vua Minh Mạng chưa lập ai làm Hoàng hậu. Trong lời dụ của mình vua giải thích rằng: “… ngôi chủ quỹ trong cung (chỉ người vợ cả – hoàng hậu) còn để trống để đợi đức hiền”. Ngôi vị Hoàng hậu để trống để “đợi đức hiền” nhưng cho đến hết đời vua Minh Mạng cũng không tìm thấy ai đủ đức để ngồi vào vị trí này.
Về việc tìm không được người làm Hoàng hậu, sách “Quốc sử di biên” của Thám hoa Phan Thúc Trực có ghi chép rằng:
Chính cung húy Kiều, con gái doanh tượng quan chưa có con, đệ nhị cung húy Hinh là con gái Lê Tông Chất. Có lần, vua hơi se mình, chính cung cùng đệ nhị cung cùng đi cầu đảo ở chùa Thiên Mạc (Thiên Mụ). Nhị cung nói rằng: “Nếu đắc tội với trời, thì cầu đảo vào đâu được”. Đến lúc vua khỏi, chính cung đem câu nói ấy, tâu với vua. Vua giận lắm! Cho nên, ngôi hoàng hậu vẫn để trống bàn mãi không định được.
Như vậy theo sử sách ghi chép lại thì việc vua Minh Mạng không lập Hoàng hậu là vì không tìm được người như ý mình, chứ không đưa ra lệ không lập Hoàng hậu, cũng không có ý chỉ nào truyền lại các đời sau không được lập Hoàng hậu.
Đến đời Thiệu Trị, Vua ở ngôi 7 năm, cũng theo vua cha, phải thấy có người đủ đức mới lập Hoàng hậu, đến cuối đời định lập Quý phi Phạm Thị Hằng làm Hoàng hậu nhưng không kịp. Sách “Đại Nam liệt truyện” ghi chép lại rằng:
Đến khi vua gần mất, mọi việc về sau, đều dặn dò ủy thác cho Hậu. Lại diện dụ các quan rằng: Quý phi là nguyên phối (vợ cả) của trẫm, là người phước đức hiền minh, giúp ta coi công việc trong cung cấm đã 7 năm. Nay ý trẫm muốn sách lập làm Hoàng hậu chính ngôi trong cung, tiếc vì việc không làm kịp mà thôi.
Vua Minh Mạng và Thiệu Trị không lập Hoàng hậu, các Vua sau này cũng không lập Hoàng hậu, vì không dám chắc những phi tần này có đức hạnh cao hơn để xứng đáng được phong Hoàng hậu hay không.
Đến đời vua Bảo Đại thì lệ này mới bị phá vỡ. Để cưới được Nguyễn Hữu Thị Lan làm vợ, vua Bảo Đại phải chấp nhận tất cả các yêu cầu như bỏ hết các phi tần để sống một vợ một chồng, sau đám cưới thì Nguyễn Hữu Thị Lan được phong làm Nam Phương hoàng hậu.
Nam Phương Hoàng hậu thời còn học ở Pháp. (Ảnh: Manhhai, Flickr, CC BY 2.0)
Không phong Tể tướng
Nhà Nguyễn cũng không phong ai làm quan đầu triều, tức Tể tướng. Thời vua Gia Long, đất nước mới trải qua loạn lạc nội chiến kéo dài, dân chúng các vùng đều có văn hóa khác nhau. Để thuận tiện việc trị vì, vua cắt cử người đứng đầu các vùng gọi là Tổng trấn, như Bắc Thành, Gia Định, v.v.. Những Tổng trấn này có quyền hạn rất lớn, có quyền đề ra chính sách thi hành trong Trấn mà mình cai quản.
Đến thời vua Minh Mạng đã cho bãi bỏ Tổng trấn, chia làm 30 tỉnh trực thuộc Triều đình. Trong Triều cũng không có quan Tể tướng, đứng đầu Triều đình là 4 quan đại thần Cần chánh, Văn minh, Võ hiển, Đông các đại học sĩ, phụ tá cho Vua, như thế tránh tình trạng quyền hạn tập trung vào một người.
Nhà Nguyễn có hạn chế phong tước, giai đoạn đầu có 5 tước được ban là “Công – Hầu – Bá – Tử – Nam”. Trong đó tước “Công” là danh giá nhất, chỉ có rất ít người có công lao lớn mới được phong. Theo lệ thì khi đủ 15 tuổi mới được xem xét phong tước. Nhưng nếu xét thấy học vấn và đức hạnh không đạt thì phải đợi thêm 5 năm nữa mới xem xét lại.
Thời vua Gia Long có nhiều đại thần được phong tước Quận công, do là Vua sáng lập Triều đại, nên có nhiều người giỏi theo phò tá lập nên Triều đại, góp công lao to lớn. Về sau thì rất hiếm người được phong tước Công.
Sau này cũng có việc phong tước Vương, chỉ là rất hiếm, như thời vua Hiệp Hòa có hai người giỏi thơ nổi tiếng được phong tước Vương, đó là Tùng Thiện vương Miên Thẩm và Tuy Lý vương Miên Trinh.
Nhà Nguyễn cũng chú trọng khoa cử nhưng không hề có một Trạng nguyên nào. Năm 1829 vua Minh Mạng quy định lại kỳ thi Đình, bộ Lễ dâng tấu trình lên rằng:
“… Phàm văn lý được mười phân thì xin cho đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên); chín phân thi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (bảng nhãn); tám phân thì đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (thám hoa); bảy phân, sáu phân thì lấy đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp); năm phân trở xuống thì đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (tiến sĩ)”.
Vua Minh Mạng chuẩn tấu.
Theo bản tấu được vua Minh Mạng phê chuẩn này thì Triều đình nhà Nguyễn vẫn lấy Trạng nguyên, nhưng không phải cứ đỗ đầu là Trạng nguyên mà con phải đạt được “văn lý mười phân”. Mà các khoa thi của nhà Nguyễn dù có người đỗ đầu nhưng không được phong Trạng nguyên vì các quan chấm thi cho rằng không đạt được “văn lý mười phân”.
Đến đời vua Thiệu Trị vẫn không có ai đỗ Trạng nguyên dù các khoa thi vẫn tổ chức đều đặn. Có người thắc mắc, vua Thiệu Trị đã nói rằng:
“Văn lý mà làm vẹn cả mười phân, thật không phải dễ. Đức Hoàng khảo ta (tức vua Minh Mạng) mở giáp khoa, ý để cầu người có học, nhưng về nhất giáp (trạng nguyên) vẫn còn để trống. Đó cũng là để đợi người có tài cao, lạ, chứ không phải câu nệ về mực thước đâu”. (Theo “Đại Nam thực lục chính biên”).
Theo Dân Việt
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự