Thay
vào đó, mỗi buổi sáng họ dùng bữa của mình bằng cách sử dụng bất kỳ thứ gì các
Phật Tử đã tự nguyện dâng cúng cho họ. Cho dù thức ăn có giàu năng lượng hay
kém phẩm chất, khoái khẩu hay khó ăn, tất cả đều được họ chấp nhận với lòng tri
ân và được xem như là dược phẩm để duy trì sự sống. Ðức Phật đã đặt ra nhiều
giới luật ngăn cấm chư Tăng không được đòi hỏi thức ăn mà họ ưa thích. Kết quả
là chư Tăng chỉ nhận các loại thực phẩm giống hệt như thức ăn người dân thường
hay sử dụng, và thông thường thì các thực phẩm đó có chứa thịt cá.
Một lần nọ, có một vị tướng giàu có và đầy uy thế tên là Siha (nghĩa là "Sư
tử") đến thăm Ðức Phật. Tuớng quân Siha trước kia là đồ đệ hết lòng ủng hộ
các tu sĩ Kỳ-na giáo; nhưng ông rất cảm động và cảm kích sau khi nghe những lời
dạy của Ðức Phật, nên ngay trong buổi gặp gỡ đó, vị tướng này đã xin quy y Tam
Bảo (nghĩa là trở thành Phật tử). Sau đó, tướng quân Siha mời Ðức Phật cùng với
một số rất đông các vị chư Tăng đến nhà của ông trong thành phố để dùng cơm vào
buổi sáng hôm sau. Ðể sửa soạn cho bữa cúng dường thức ăn đó, tướng quân Siha
ra lệnh người đầy tớ đi mua một số thịt ở chợ để dùng vào dịp lễ này. Khi các
vị tu sĩ Kỳ-na giáo nghe biết được sự quy y Phật Pháp của người bảo trợ cũ của
họ và ông ta đang sửa soạn một bữa cơm cúng dường Ðức Phật cùng chư Tăng, họ
trở nên bực tức và nói rằng:
"Từ nay sẽ có nhiều vị đạo sĩ Ni-kiền (tu sĩ Kỳ-na
giáo) vẫy tay, than phiền từ đường xe ngựa này đến đường xe ngựa khác, từ khắp
ngã rẽ này sang ngã rẽ khác trong thành phố, rằng: Ngày hôm nay tướng quân Siha
đã giết một con vật béo, để dọn một bữa tiệc thiết đãi ẩn sĩ Cồ Ðàm (Ðức Phật).
Ẩn sĩ Cồ Đàm đã cố ý ăn thịt từ con vật mà ông ta biết đã được giết để thiết
đãi ông ta và các vị chư tăng đi theo; và việc này được thực hiện chỉ vì ông ta
mà thôi".
Thật ra, tướng quân Siha đã phân biệt rất hợp với đạo đức, giữa một bên là thịt
mua tại chợ đã được giết mổ sẵn để bán và bên kia là mua một con vật còn sống
và ra lệnh giết. Sự phân biệt này không mấy hiển nhiên đối với một số người Âu
Mỹ, nhưng đã được ghi chép rất nhiều lần trong giáo lý của Ðức Phật. Thế rồi,
để xác định rõ thái độ về việc ăn thịt cho chư Tăng, Ðức Phật dạy:
"Này chư Tỳ-kheo, Ta cho phép các vị dùng thịt cá trong
ba truờng hợp sau đây: thịt này phải chưa được các vị nhìn thấy, các vị chưa
được nghe biết, hoặc giả chư vị không có gì phải nghi ngờ là con vật đó đã được
sát sanh chỉ nhằm mục đích thiết đãi cho chư vị. Nhưng các vị không được cố
tình sử dụng thứ thịt đã được giết chỉ dành cho các vị sử dụng mà thôi."
Có nhiều đoạn trong Kinh điển Phật giáo cho thấy Ðức Phật và các vị chư Tăng
của ngài được cúng dường thịt và các ngài cũng nhận để ăn. Một trong những đoạn
kinh nầy được viết trong phần mở đầu câu chuyện liên quan đến một giới luật
hoàn toàn không liên quan gì đến thịt (Ni-tát-kỳ Ba-dật đề, Xả đọa pháp, 5) và
thoáng qua cho thấy thịt nói ở đây hoàn toàn chỉ là ngẫu nhiên đối với đề tài
chính mà câu chuyện muốn nhấn mạnh đến tính xác thực của đoạn văn:
- Bà Uppalavanna (Liên hoa sắc) là một trong hai vị nữ đại đệ tử của Ðức Phật.
Bà thọ giới tỳ-kheo-ni khi vẫn còn trẻ và chẳng bao lâu đã được giác ngộ hoàn
toàn. Ngoài sự kiện bà là một vị A-la-hán, bà còn có nhiều uy lực thần thông
đến độ chính Ðức Phật đã tuyên bố bà là người lỗi lạc nhất trong số tất cả các
vị nữ đệ tử về mặt này. Một lần kia, trong khi bà Uppalavanna đang ngồi tham
thiền một mình vào buổi trưa tại khu vườn "Người Mù", trong một cánh
rừng hẻo lánh bên ngoài thành Xá-vệ, có một vài tên cướp đi ngang qua đó. Mấy
tên cướp vừa mới đánh cắp một con bò, giết con vật và chạy trốn với một ít
thịt.
Vừa nhìn thấy một vị ni sư tham thiền điềm tĩnh và nghiêm trang, tên cướp
đầu sỏ đã nhanh nhẹn bỏ một ít thịt bò trong một cái bao làm bằng lá cây và để lại
cho ni sư. Ni sư Uppalavanna nhặt miếng thịt bò lên và quyết định dâng cúng cho
Ðức Phật. Ngay sáng sớm hôm sau, sau khi đã nấu thức ăn với thịt đó, bà cất
mình lên không trung và bay tới nơi đức Phật đang ngụ, tại Trúc lâm bên ngoài
thành Vương xá, và như thế Ni sư đã bay một quãng đường trên 200 kí-lô-mét. Mặc
dù không nghe nói đến việc Ðức Phật đã thực sự sử dụng món thịt đó, nhưng rõ
ràng là một ni sư có nhiều thần thông ắt hẵn bà đã biết Ðức Phật dùng món ăn
nào.
Tuy nhiên cũng có một số thịt đặc biệt cấm các vị chư tăng không được sử dụng.
Đó là: thịt người, vì những lý do đã quá rõ ràng; thịt voi và thịt ngựa vì
trong thời kỳ đó, hai con vật này được coi là thú vật của nhà vua; thịt chó -
vì dân chúng thường coi chó là con vật ghê tởm; thịt rắn, sư tử, cọp, báo, gấu
và linh cẩu - vì người ta tin rằng ai ăn thịt những loài thú rừng nguy hiểm này
sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể khiến cho các con vật đồng loại tấn công
người đó để trả thù.
Vào cuối cuộc đời Ðức Phật, người anh họ của ngài tên là Devadatta (Đề-bà-đạt-đa)
có ý định chiếm quyền lãnh đạo Tăng đoàn. Ðể có được hậu thuẫn của các vị khác,
Devadatta đã cố gắng tỏ ra nghiêm khắc hơn cả Đức Phật và muốn chứng minh rằng
Đức Phật có phần dễ duôi. Devadatta đề nghị với Ðức Phật là tất cả các vị Tăng
Ni đều phải "ăn rau đậu" ("ăn chay trường"). Ðức Phật đã từ
chối và một lần nữa Ngài nhắc lại một giới luật mà Ngài đã thiết lập nhiều năm
về trước, qui định tất cả các Tăng Ni có thể ăn thịt hay cá, khi nào biết rõ
thịt con vật đó không bị cấm sử dụng và khi họ không có lý do gì để nghi ngờ
rằng con vật đó được giết đặc biệt dùng để chiêu đãi họ (Tam tịnh nhục).
Hồi đó, Luật đã đề cập rõ ràng đến vấn đề này. Các vị Tăng Ni có thể ăn thịt.
Ngay cả Ðức Phật cũng đã dùng thịt. Tiếc thay, một số người Tây phương ngày nay
thường xem việc ăn thịt đối với các vị Tăng Ni như là sự nuông chiều ưu đãi. Đó
là một điều rất xa sự thật - vì tôi đã từng thực hiện việc "ăn chay
trường" được ba năm trước khi trở thành một tu sĩ. Trong năm đầu khi tôi
tu học tại vùng Ðông Bắc Thái Lan, tôi đã phải cố gắng đối diện với nhiều bữa
ăn chỉ có cơm nếp với ếch luộc (ăn toàn bộ cả thịt lẫn xương), hoặc với ốc sên
dai như cao su, hoặc kiến càng nấu với cà-ri, hoặc châu chấu chiên dòn - tôi
nghĩ có lẽ người "ăn chay" là người tốt phước hơn! Nhân ngày Lễ Giáng
Sinh đầu tiên tại miền Ðông Bắc Thái Lan, một người Mỹ đến thăm tu viện khoảng
độ một tuần trước ngày 25 tháng 12.
Thật khó có thể tin nổi, ông ta có một trại
nuôi gà tây, và rồi, ông ta đã nhanh chóng nhận ra chúng tôi đang phải sống
trong hoàn cảnh khổ sở như thế nào. Ông ta hứa sẽ đem đến cho chúng tôi một con
gà tây để ăn Giáng Sinh. Ông ta bảo sẽ chọn một con gà tây thật to béo đặc biệt
dành cho chúng tôi... và tôi thấy nản lòng. Chúng tôi không thể nhận thịt gà
tây đó khi biết đích xác con vật bị giết lấy thịt đặc biệt để cho các vị tăng
ni sử dụng. Chúng tôi từ chối không nhận món quà đó. Thế là tôi đành phải quay
về với thức ăn của cư dân trong làng - lại cơm nếp với ếch luộc.
Các vị tăng ni không được lựa chọn gì cả khi đến bữa ăn và điều này còn khó
khăn hơn là "ăn chay trường". Tuy nhiên, chúng ta có thể khuyến khích
việc ăn rau đậu, và nếu như những vị cư sĩ hộ tăng đem đến cúng dường chư Tăng
toàn là thực phẩm rau đậu và không có thịt, thì trong trường hợp đó, các vị sư
cũng không phàn nàn. Mong rằng quí vị hiểu cho điều nầy, và hãy đối xử tốt với
các loài thú vật.
Tác giả bài viết: Thích Thiện Minh dịch
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự