Không có tình yêu thương kính trọng vô điều kiện đối với cha mẹ thì không thể
có tình yêu thương thật sự đối với người khác. Một xã hội không có những cá
nhân có tình yêu thương thật sự, chỉ có những cá nhân, mà lòng yêu thương
trong họ chỉ tồn tại khi các điều kiện xuất phát từ lòng tham dục đã được
thỏa mản, nếu không đúng theo sự ham muốn, nếu trái với ý muốn, thì tình thương
đó sẽ tan biến, dể biến thành sự khinh khi, đố kỵ, ganh ghét và hận thù. Như
thế thì xã hội đó, sẽ không thể có được sự an lạc, sự an bình thật sự.
Phong tục tập quán của các dân tộc, giáo lý của các tôn giáo đều khuyên dạy, đề
cao và hướng con người đến việc nhận thức và thể hiện lòng hiếu hạnh của mình
đối với đấng sinh thành. Đặc biệt nước ta với nền văn minh phát triển từ rất
lâu, văn hóa Nho-Phật-Lão đã ảnh hưởng sâu đậm trong xã hội ngay từ thời lập
quốc. Chữ hiếu đã hình thành và tồn tại trong từng cá nhân như là bản tính tự
nhiên vốn có từ khi chúng ta mới chào đời.
Mỗi người Việt Nam, không ai là không thuộc nằm lòng những câu câu ca dao ấy và
chúng ta có thường xuyên nhớ tới, để tìm cách thể hiện lòng hiếu thảo của mình
trong thực tế ở mức độ như thế nào, còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều
kiện của mỗi người.
Hơn
nữa, do khả năng nhận thức của mỗi cá nhân có sai khác, nên chữ hiếu có được ý
thức và thực hiện ở mức độ cao hay thấp, lại tùy thuộc vào khả năng nhận thức
của người đó. Thậm chí có trường hợp bản tính hiếu thảo đối với cha mẹ vốn có
sẵn từ khi mới sinh, nhưng đến nay, sau hơn 20 năm, 30 năm, có khi đến 50, 60
năm vẫn còn đang nằm bất động dưới tận đáy sâu tâm hồn, bị che phủ,
che lấp dưới lớp trầm tích của vô minh và tham dục.
Đây
là trường hợp đại bất hạnh cho người đó, họ đang ở trong cảnh giới đại ngu si,
liệt tuệ, si ám. Thật đáng thương!
Phật
giáo là một trong những tôn giáo luôn đề cao chữ hiếu, luôn tôn trọng cha mẹ ở
mức độ cao nhất:
"Gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật" (Kinh Đại Tập)
“Thờ trời đất quỷ thần, không bằng có hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là vị thần
minh cao nhất trong các thần minh" (Kinh Tứ Thập nhị Chương)
"Phạm thiên, này các Tỳ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.
Các đạo sư ngày xưa, này các Tỳ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.
Đáng được cúng dường, này các Tỳ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha". (Tăng Chi II A)
Phật giáo xem chữ hiếu là giới hạnh cao nhất, là điều thiện tối cao và bất hiếu
là đều ác lớn nhất:
“Làm con đối với cha mẹ, khi đem dâng vật dụng cho cha mẹ, dù nhỏ đi nữa thì
được phước vô lượng,
Khi làm điều bất thiện đối với cha mẹ, dù một chỉ một chút thì tội cũng vô
lượng " (Kinh Tập Bảo Tạng)
Đức
Phật, bậc Giác ngộ, bậc Thầy của tất cả cõi trời và người, bậc Đại trí huệ, bậc
được khắp sáu cõi Tôn kính, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác ... sau khi thành đạo
đã thể hiện lòng từ hiếu của mình với phụ vương, mẫu hậu, kế mẫu vừa theo
thường pháp vừa đúng Chánh Pháp.
Thế
Tôn đã đi bộ, vượt ngàn dặm đường hiểm trở để trở về thăm phụ hoàng, khi người
sắp lâm chung, Ngài lại vượt đường xa để đến bên cạnh vua cha và tự khiêng một
góc linh sàng của người đến tận nơi hỏa táng.Với kế mẫu, Ngài luôn tỏ lòng từ
hiếu.
Bên
cạnh việc thể hiện chữ hiếu theo thường pháp, lòng từ hiếu của Đức Phật còn
nhằm mục đích hướng tất cả chúng sinh đến việc hiểu và hành Chính Pháp để được
giải thoát. Trong những lần gặp gỡ phụ thân và kế mẫu, Ngài đã thuyết pháp để
độ cả hai chứng đắc quả A-La-Hán, với mẫu hậu Ngài đã ngự lên cõi trời Đao Lợi
để thuyết pháp cho mẹ (Phật thăng Đao Lợi vị mẫu thuyết pháp kinh)
Chữ
Hiếu, sự thể hiện của lòng từ bi được Ngài thể hiện với tất cả bà mẹ đang
cư ngụ tại thế gian, trên thiên giới hay đang thọ nghiệp nơi các cõi dữ.
Ngài đã phương tiện thuyết pháp, đưa họ từ nơi tối tăm đến nơi ánh sáng, từ
chốn khổ đau đến nơi bình an hạnh phúc.
“Các ngươi nghĩ như thế nào, này các Tỳ-kheo? Cái gì là nhiều hơn? Sửa mẹ
mà các ngươi đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một
thời gian dài, hay là nước trong bốn biển?
“Cái
nầy là nhiều hơn, này các Tỳ-kheo, tức là sữa mẹ các ngươi đã uống, trong
khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, chớ không phải nước
trong bốn biển"
Đức Phật luôn khuyên dạy chúng ta việc nhớ ơn và trả ơn cha mẹ:
“Phụng
sự cha mẹ không thiếu thốn, phàm làm việc gì phải thưa trình trước cho cha mẹ rõ ..." (Kinh Trường A Hàm)
Phụng dưỡng, cúng dường cha mẹ là điều nên làm. nhưng vì cha mẹ mà làm điều ác,
vì muốn cha mẹ được sung sướng mà làm việc bất nhân, thời nhất định không thể
chấp nhận. Vì làm như vậy chỉ đem lại tai hại cho tự thân và còn đem lại sự
nguy hại cho mẹ cha:
“Người
đã làm ác để nuôi dưỡng cha mẹ, cũng không thể nào tránh khỏi quả báo của hành
vi bất thiện của mình; và như vậy, không thể lấy lý do nuôi dưỡng cha mẹ để tự
cứu mình và để bào chữa cho nhữnh hành vi bất chánh của mình”
(Kinh Trung Bộ)
Chúng
ta hiếu dưỡng mẹ cha không những hưởng được rất nhiều hạnh phúc từ sự yêu quý
của cha mẹ, người thân trong gia đình, mà còn nhận được sự tán thán kính trọng
của xã hội, còn được hưởng những quả báo tốt lành do lòng hiếu dưỡng mang lại:
“Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, trong ấy con cái kính lễ cha mẹ, những
gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng Phạm Thiên. Những gia đình nào, này các
Tỷ-kheo, trong ấy con cái kính lễ cha mẹ, những gia đình ấy được chấp nhận như
các Đạo sư thời xưa” (Tăng Chi Bộ Kinh)
Mục
đích của người con Phật là phải thực hiện lời Đức Từ phụ chỉ dạy, luôn hướng
đến mục đích thoát khổ, mang đến hạnh phúc, sự an lạc thật sự, vững bền cho
mình, cho người khác ngay trong hiện tại và trong tương lai lâu dài.
Thế
nên việc phụng dưỡng song thân đầy đủ vật chất là điều tốt, nhưng càng tốt đẹp
hơn nữa, một khi chúng ta tìm cách hướng cha mẹ mình đến với Phật pháp.
Chúng
ta đến với Đạo Phật, tìm hiểu và hành trì theo những điểu Thế Tôn chỉ dạy,
chúng ta được may mắn, được phần nào hưởng được hương vị Chính pháp thì lẽ nào
lại không cúng dường cha mẹ mình điều tốt đẹp đó sao. Món ăn ngon ta còn dâng
lên cha mẹ, huống chi đây lại là Pháp lạc cao quý nhất trong những điều cao quý.
“Muốn
báo ân cha mẹ, nên khuyên cha mẹ đến với Tam bảo; đối với các pháp nhân quả . .
. cha mẹ chưa tin, tìm cách khuyên giải để cha mẹ tin; cha mẹ tin rồi, tìm cách
để lòng tin tăng trưởng".
"Cha
mẹ không giữ tịnh giới, thì khuyến khích, hướng dẩn giữ tịnh giới. Cha mẹ có
lòng xan tham, thì khuyến khích, hướng dẩn làm việc bố thí, quán niệm xả
ly; giúp cha mẹ khéo tự điều phục, an trú trong chánh pháp. Như vậy mới gọi là
chân thực báo ân cha mẹ". (Cảnh Sách).
Hoặc như cha mẹ lở đang có nếp sống không lành mạnh, nhiều bất thiện, thời phải
cương quyết tích cực tìm cơ duyên thích hợp mà khuyên giải, hướng dẩn để họ từ
bỏ nếp sống ấy mà làm các thiện hạnh về thân, về lời nói, ý nghĩ, sống một đời
sống hướng thiện.
Không
những Thế Tôn khuyên dạy về chữ Hiếu cho hàng Cư sĩ, mà đối với các Tỷ-kheo
Ngài luôn nhắc nhở:
“Các thầy Tỷ-kheo, có hai người mà dù các thầy có hướng dẩn họ làm điều thiện
đi nữa, cũng vẩn chưa trả ơn được, đó là cha và mẹ. Các thầy phải phụng dưỡng
cha mẹ, luôn luôn hiếu thuận cho đúng lúc, không lỡ mất cơ hội” (Chính 2/601)
Khi cha mẹ còn sống, phải tranh thủ khoản thời gian quý báu nầy, để ân cần chăm
lo săn sóc, thăm viếng. Như thế gọi là đúng lúc. Nếu bằng không, thì khi cha mẹ
chết đi sẽ không còn cơ hội nào nữa. Lúc ấy dù cho ta có hối hận, có tổ chức
làm lễ, cúng giổ to lớn đến thế nào đi nữa cũng không còn ý nghĩa.
Do đó thật may mắn cho những ai đang có được cơ hội đền đáp công ơn sinh thành:
Không
những hàng cư sĩ, mà người xuất gia có hiếu với cha mẹ cũng hưởng được quả báo
to lớn:
“Có
hai việc được đại công đức, được đại quả báo, được vị cam lộ, ấy là phụng
sự cha và phụng sự mẹ. Vì vậy, các thầy Tỷ-kheo, hãy luôn nhớ mà hiếu thuận
phụng dưỡng cha mẹ”
Như
trên, chúng ta thấy rỏ, từ người xuất gia là các Tỷ-kheo, cho đến người tu tại
gia là các cư sỹ, cho đến người ngoại đạo, tất cả đều được Thế Tôn khuyên dạy
về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, và nhờ vậy, đối với người Việt Nam chúng ta,
lòng hiếu thảo vốn in sâu đậm trong tâm hồn, được thể hiện qua biết bao câu ca
dao, tục ngữ; thì nay, chữ Hiếu lại càng có vai trò và ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong đời sống của người dân Việt.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự