Khi nói điều nầy, tôi không có ý là tất cả chúng ta đều nên xuất
gia, tôi chỉ muốn nói rằng chúng ta nên nuôi dưỡng lòng tự trọng bằng cách cố
gắng làm những việc thiện lành.
Có nhiều hành giả rất tinh tấn hành thiền nhưng lại dễ duôi trong việc giử gìn
giới hạnh. Giới hạnh phải là nền tảng cho tất cả quan hệ giữa người và người.
Làm người, chúng ta cần vươn đến một tiêu chuẩn nào đó về giới hạnh và đạo đức.
Khi
không có lòng tự trọng, chúng ta dễ buông xuôi mọi việc, chỉ muốn sống sao cho
qua thì giờ, ứng xử theo những cách thường dẫn đến sự chia rẽ, ngờ vực và nghi
kỵ lẫn nhau. Xã hội ngày nay đang đau khổ với bao tệ nạn khủng khiếp như nghiện
ma túy, nghiện rượu, tham nhũng và bạo động giết người. Những tệ nạn này đang
trở thành khá phổ biến vì hiện nay con người sống không có đạo lý. Và nếu không
có đạo lý, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng sa sút tinh thần, tuyệt vọng, và đầy
sân hận với chính bản thân mình.
VƯƠN ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐỨC HẠNH
Là con người, chúng ta không bị bản năng của loài vật chế ngự; chúng ta có khả
năng vươn đến một đời sống đạo đức cao hơn. Vì thế, chúng ta có thể dành đời
mình để trao dồi đức hạnh, không chỉ bằng cách hành thiền, mà còn qua cách sống
có trách nhiệm với xã hội. Sống đời đức hạnh sẽ mang lại niềm vui, bình an, và
hài hòa không những cho chúng ta mà còn cho toàn xã hội.
Tôi thường nghĩ về sự trao dồi đức hạnh như một khoa học -- khoa học về sự
thiện lành, hay khoa học về sự lương thiện. Chúng ta tìm hiểu sự lương thiện;
nhưng không phải chỉ để có nhận định và ý kiến về khoa học nầy, và thảo luận về
nó một cách trừu tượng. Chúng ta thật sự suy tưởng về bản chất của sự lương
thiện. Chúng ta đặt câu hỏi, "Chúng ta nên làm gì trong đời nầy để được
xem là người lương thiện?" Chúng ta biến cuộc đời của mình thành một quá
trình học hỏi về sự lương thiện.
Nhiều người hiểu lầm đạo Phật như là một tôn giáo theo thuyết định mệnh và thụ
động mà theo đó bạn không cần phải làm gì hết ngoài việc ngồi thiền, quán sát
hơi thở hay sự phòng xẹp của bụng, hoặc chỉ ngồi dưới gốc cây và miệng thì thầm
niệm "Vạn pháp là vô thường." Phật giáo không phải là một tôn giáo
chủ trương lãnh đạm và thờ ơ với cuộc đời, không quan tâm gì đến xã hội mà
chúng ta đang sống; Đạo Phật dứt khoát và rỏ ràng khuyến khích chúng ta phát
huy đạo dức, và điều này sẽ mang lại niềm an lạc cho cuộc sống chúng ta.
Nếu đi tu mà không an vui hạnh phúc thì chắc chắn sẽ không còn tôn giáo trên
đời nầy. Và để thật sự an vui hạnh phúc, bạn phải vị tha và rộng lượng bố thí;
bạn phải làm việc vì người khác. Hạnh phúc đến từ sự hiến dâng không vì bản
thân mình, trong đó bạn không mong được phần thưởng hay danh vọng gì hết. Nếu
bố thí mà vẫn mong được một lợi lộc nào đó, bạn sẽ không vui trong lúc bố thí;
bạn sẽ luôn cảm thấy có một chút thất vọng nào đó trong lòng.
Nếu
bạn bố thí mà vẫn muốn nhận lại một cái gì đó, tâm bạn sẽ không bao giờ an ổn.
Vì thế, niềm vui được hiến dâng, thương yêu, làm điều thiện lành, và giúp đỡ
người khác vượt lên cao hơn lòng vị kỷ. Tự bản thân nó đã là một phần thưởng.
Chỉ có khả năng làm việc để phục vụ người khác và cuộc sống vì lợi lạc xã hội,
chứ không phải sự lợi dụng và bòn rút của xã hội, mới mang lại danh dự đích
thực cho con người.
SỐNG CÓ TRÁCH NIỆM VỚI TRÁI ĐẤT CỦA CHÚNG TA
Thời đại hiện nay đòi hỏi chúng ta cần có cái nhìn sâu sắc hơn về bản thân mình
và về cái hành tinh mà chúng ta đang sống với tất cả chúng sanh khác. Cách suy
nghĩ về con người như một cá thể biệt lập, hay tư tưởng chỉ biết sống cho riêng
mình không còn hợp thời nữa.
Trong
vòng năm mươi năm qua, như là những thành viên sống trên quả đất nầy, rõ ràng
là loài người đang quan hệ ngày càng chặt chẽ và mật thiết hơn. Khi có một nhóm
người nào đó nắm tất cả những quyền lợi và đặc ân trong tay và không cho người
khác có được gì cả, thế giới nầy sẽ mất quân bình; chiến tranh và xung đột sẽ
xảy ra. Bất cứ nơi nào có bất công và mất quân bình, ở đó đau khổ của loài
người và các chúng sinh khác sẽ càng nhiều thêm.
Vì
thế đã đến lúc chúng ta nên có cái nhìn trí tuệ là tất cả chúng ta đều liên hệ
chặt chẽ với nhau, và tất cả chúng ta đều đang trợ duyên với nhau để sống.
Chúng ta không phải là những cá nhân hay những quốc gia hoạt động độc lập,
riêng lẻ, và không cần biết gì đến tác động của chúng ta trên những người còn
lại.
Ngày nay, càng nhiều người đặt câu hỏi, "Tôi nên sống như thế nào? Tôi có
nên sống theo sự thôi thúc của bản năng, chạy theo các mốt thời thượng, và hành
động theo sở thích của mình không? Tôi thật sự có quyền chỉ chăm lo cho sự an
toàn và thỏa mãn dục lạc cho riêng mình không?" Vì mỗi con người là một bộ
phận không thể tách rời khỏi xã hội, chúng ta phải suy nghĩ về trách nhiệm của
mình đối với xã hội và hành tinh mà chúng ta đang cùng sống với các chúng sanh
khác.
Nếu có người ích kỷ và hạ tiện nào đó nghĩ rằng, "Tôi sẽ chiếm lấy bất cứ
cái gì đó cho riêng mình, cho dù phải chà đạp lên trên quyền lợi của người
khác." Người đó mưu tính, xử dụng đủ loại mánh khóe, và tìm cách kiểm soát
mọi việc nhằm phục vụ quyền lợi của họ, mà không nghĩ gì đến người khác. Đó
chính là người không có ý thức trách nhiệm cá nhân. Trong thời đại hiện nay,
người ta cảm thấy khó chịu khi phải bàn về vấn đề trách nhiệm cá nhân. Nhiều
người tìm cách tránh né vấn đề nầy.
Thật ra, các chính trị gia đương đại thường lợi dụng lòng ích kỷ của người dân
ở các nước phương Tây để xây dựng quyền lực cho mình bằng cách hứa hẹn đủ loại
lợi dưỡng, cơ hội tiến thân, và bảo đảm an toàn cá nhân.
Trong
chừng mực nào đó, chúng ta rơi vào cái bẩy của họ vì đôi khi chúng ta không thể
sống với ý thức trách nhiệm cá nhân. Chúng ta vẫn muốn được bảo vệ, muốn có một
bậc cha mẹ nào đó săn sóc, vỗ về, nói với chúng ta là mọi việc sẽ ổn thỏa, và
thỏa mãn tất cả nhu cầu của chúng ta. Điều nầy rất hấp dẫn; vì trong mỗi con
người của chúng ta vẫn tiềm ẩn một đứa trẻ thỉnh thoảng có nhu cầu khóc lóc đòi
cha mẹ hướng dẫn, nuôi dưỡng, và an ủi mỗi khi nó cảm thấy bất ổn.
Ngày nay, các nhà nước hiện đại vô hình chung thường phải đóng vai trò các bậc
cha mẹ bảo hộ con cái bằng cách nầy hay cách khác. Chúng ta thấy là ở các nước
dân chủ phương Tây, người dân rất đòi hỏi; họ không ngừng đòi hỏi chính phủ đủ
loại quyền lợi, đặc ân, và tất cả cơ hội để thăng tiến.
Đồng
thời, tôi cũng thấy là người dân ở các nước Anh và Mỷ thường không biết ơn và
cảm kích về những gì mà chính phủ đã làm cho họ. Họ luôn có khuynh hướng lo sợ
là nhà nước sẽ tước lấy quyền lợi hay chỉ quan tâm về những gì hợp hay không
hợp với sở thích của họ mà thôi.
Và rồi, đến một lúc nào đó chúng ta sẽ thấy là nhà nước không đáp ứng tất cả
nhu cầu của chúng ta -- cũng giống như đôi khi có người cảm thấy là Chúa đã bỏ
rơi họ, hay cha mẹ không đủ thương yêu họ. Mặc dù nhận được tất cả những bố thí
và phúc lợi xã hội từ cha mẹ, nhà nước hay từ một Đấng Thượng Đế nào đó, chúng
ta vẫn khổ đau và bất toại nguyện; chúng ta vẫn không hài lòng. Chúng ta vẫn
thấy không đủ.
Toàn
bộ vũ trụ nầy sẽ không thể nào thật sự và trọn vẹn thỏa mãn chúng ta. Sẽ không
có một nhà nước nào mà con người có thể hình dung hay tạo dựng nên lại có thể
thật sự thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của chúng ta.
Ở phương Tây, những dính mắc, tham đắm, và lệ thuộc của con người đã trở nên
phức tạp. Chúng ta không những chỉ đòi hỏi sự an toàn về thân mạng, nhà ở, thực
phẩm, quần áo, thuốc men mà còn đòi hỏi không biết bao nhiêu cơ hội thăng tiến.
Chúng ta đòi hỏi được giáo dục, được tự do làm bất cứ cái gì mình muốn, được có
thời gian để sống theo cách riêng của mình, và được luôn cả cơ hội để phát
triển những kỹ xảo và năng lực của chính chúng ta. Chúng ta đòi hỏi quá nhiều.
Nhưng chúng ta đã cho được bao nhiêu? Chúng ta có thể làm gì để cống hiến lại?
Phải
chăng mỗi người chúng ta nên làm một cái gì đó để đền ơn xã hội? Chúng ta nên
học hỏi điều gì để không hành động như một đứa trẻ không bao giờ trưởng thành,
chỉ biết đòi hỏi người mẹ phải nuôi dưỡng và bảo vệ mình một cách vô hạn và
không cùng?
KHÔNG THEO CÁC PHE PHÁI
Ngày nay, bằng nhiều cách, con người bị sức ép phải chọn một tư thế hay lập
trường nào đó. Tâm trí chúng ta thường chạy đi tìm một lập trường đã có sẵn nào
đó rồi bám chặt vào đó. Lập trường nầy có thể là một quan điểm chính trị, tôn
giáo, quốc gia, hay quan điểm cá nhân nào đó. Đó cũng có thể là quan điểm về
giai cấp, màu da, hay giới tính. Cũng có người liều lĩnh tuyệt vọng chạy đi tìm
lập trường trên những vấn đề xằng bậy và rồ dại nhất. Chúng ta có nhu cầu phải
chọn một lập trường nào đó để cảm thấy cuộc sống mình có ý nghĩa và mục đích.
Nếu không, có lẽ người đời sẽ xem chúng ta là một kẻ khù khờ đáng chán và không
thuốc chữa.
Nhưng khi đã chọn lập trường -- nghĩa là khi bị dính mắc vào một quan điểm nào
đó -- chúng ta sẽ có khuynh hướng bị ám ảnh bởi lập trường đó, và không nhìn
mọi việc rõ ràng nữa. Chúng ta sẽ bị kẹt trong những quan điểm và tác phong tự
cho mình là đúng đến nỗi chúng ta không còn khả năng nhạy cảm, ngay cả đối với
tập thể và gia đình của chúng ta, đó là chưa kể đối với kẻ thù của chúng ta.
Chúng ta có thể mù quáng đấu tranh cho quan điểm chính trị của mình đến nỗi có
thể sẵn sàng hủy diệt cả thế giới nầy hầu bảo vệ quan điểm của mình.
Dĩ nhiên, chỉ có những người cực đoan mới làm việc nầy. Đa phần chúng ta đều có
một cái nhìn rỏ ràng nhất định nào đó về cuộc đời, nhưng chúng ta lại thường do
dự và dao động. Chúng ta bối rối không biết nên theo phe nào -- nên theo hẳn
phe tả hay phe hữu -- và chao đảo giữa hai phe. Thỉnh thoảng chúng ta ganh tỵ
với những người cả tin và cả quyết, luôn cho lập trường của ông ta là tuyệt đối
đúng; và chúng ta muốn mình cũng có được niềm tin mạnh mẽ và quyết đoán như ông
ta. Chúng ta nghĩ là tâm chúng ta sẽ yên ổn nếu mọi việc được trắng đen rạch
ròi như thế.
Nhưng phần lớn cuộc đời của chúng ta đều nằm trong vùng tranh tối tranh sáng
"không hữu cũng không tả." Trong cuộc sống, chúng ta cố gắng duy trì
thân mạng của mình, sống hòa hợp với những người chung quanh, sống yên ổn và có
một số thân bằng quyến thuộc nào đó. Ngay cả những người cuồng tính nhất cũng
phải trực diện với những sự thật của cuộc đời. Họ cũng phải tìm thực phẩm để
ăn, nhà cửa để ở, và quần áo để mặc; họ cũng phải già, khổ vì bịnh, và mất đi
người thân của mình. Tất cả chúng ta đều đau khổ khi không đạt được những gì
mình mong muốn. Và tất cả chúng ta đều phải đi qua một kinh nghiệm mà không ai
có thể tránh được, đó là sự chết.
Đức Phật dạy chúng ta về cuộc đời thật như chính nó. Đạo Phật giúp ta mở rộng
tâm thức để tiếp nhận cuộc đời, mà không buộc chúng ta phải chọn một lập
trường. Điều nầy không có nghĩa là chúng ta không được phép có những nhận định
và ý kiến; chúng ta phải có những quan kiến để sống trên đời. Nhưng chúng ta
cũng cần suy nghĩ về việc chúng ta dễ bị dính mắc trong các lập trường và quan
điểm. Khuynh hướng dính mắc nầy là một vấn nạn đặc biệt trầm trọng ở các nước
phương Tây: chúng ta quá duy tâm và hoàn toàn bị trói buộc bởi những lý thuyết
và quan điểm về những gì xảy ra trong cuộc đời.
Con người ngày nay có những tiêu chuẩn rất cao; họ biết sự diễn biến và vận
hành của mọi việc. Tôi hiếm khi gặp người chủ tâm làm những việc xấu ác, sống
ích kỷ và không quan tâm gì đến người khác; những người như thế rất ít. Phần
đông những người mà tôi gặp đều muốn mọi việc phải được tối ưu -- cho dù chữ
"tối ưu" nầy được hiểu theo nghĩa là đáp ứng tối ưu cho quyền lợi của
riêng họ. Chúng ta động não để định nghĩa thế nào là tối ưu, và chính vì thế mà
tâm chúng ta trở nên rất phán đoán. Chúng ta cho là xã hội không diễn biến như
chúng ta mong đợi: nó phải tốt hơn. Chúng ta rất chú tâm đến những vấn đề tiêu
cực đang xảy ra chẳng hạn như nền kinh tế phát triển chậm, bộ máy nhà nước nặng
nề, và những bất công còn tồn đọng. N
hững
vấn đề này chiếm lĩnh tâm tư chúng ta vì chúng ta hình dung ra một xã hội không
tưởng trong đó mọi việc diễn ra tốt đẹp như ý chúng ta muốn. Chúng ta có thể
tưởng tượng ra một thiên đàng đầy công bằng, bình đẳng, tử tế, và tình thương
yêu. Nhưng trong thực tế, những gì chúng ta kinh nghiệm chính là cuộc đời thật
như chính nó. Cuộc đời nầy đang xảy ra cho bạn như thế nào? Thật sự nó là gì?
Đây chính là điều mà chúng tôi gọi là mở rộng tâm thức để tiếp nhận cuộc đời
hay các pháp như chính nó, đừng phê phán và cũng đừng khẳng định điều gì cả,
hãy thật sự cảm nhận cái thiện và bất thiện, công lý và bất công, ban ngày và
bóng đêm, trời nắng và trời mưa, cái nóng bức và lạnh lẽo. Trong ngữ học Phật
giáo, đó là hãy chánh niệm. Chánh niệm là con đường giúp chúng ta đi ra khỏi
khổ đau. Khi chúng ta sống trọn vẹn với thực tại mà không phán đoán, tâm chúng
ta sẽ tròn đủ, cởi mở, tỉnh giác, và tiếp nhận.
Với chánh niệm, chúng ta không phải lấy lập trường, chạy theo các phe phái, hay
bị kẹt trong những cuộc cãi vã và những vấn đề của gia đình, cơ quan, và xã
hội. Ngược lại, chúng ta có thể mở rộng tâm thức trước những xung đột. Tâm con
người có khả năng tiếp nhận cả hai phe đối lập; nó mẫn cảm với mọi việc. Nó có
thể cởi mở, tiếp nhận, và rõ ràng với phe hữu lẫn phe tả, với cái xấu lẫn cái
tốt.
SỐNG VỚI TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN
Với tâm chánh niệm, chúng ta có thể giữ tư thế độc lập với những người chung
quanh. Cho dù xã hội chung quanh có làm gì đi nữa, chúng ta vẫn có thể đứng
vững trên đôi chân và lấy trách nhiệm về hành vi đạo đức của mình.
Tôi có thể tử tế, khoan dung, độ lượng, và thương yêu bạn, và đó là niềm vui
của tôi. Nhưng nếu tôi để cho hạnh phúc của tôi tùy thuộc vào thái độ tử tế của
bạn đối với tôi, hạnh phúc của tôi sẽ luôn bị đe dọa, vì nếu bạn không làm
những gì mà tôi yêu thích -- ứng xử theo cách mà tôi mong muốn -- tôi sẽ đau
khổ. Do đó, hạnh phúc của tôi sẽ luôn bị đe dọa vì cuộc đời có thể không xảy ra
như ý tôi muốn.
Nếu tôi mong rằng mọi việc sẽ thay đổi, thì rõ ràng cả đời tôi sẽ thất vọng --
nếu tôi mong mọi người sẽ sống đạo đức, những cuộc chiến tranh sẽ chấm dứt, con
người sẽ không còn phung phí tiền của, các nhà nước sẽ trở nên nhân đạo, biết
chia sẻ, và trợ cấp cho nhân dân -- nghĩa là mọi việc sẽ xảy ra đúng như ý tôi
muốn! Thật ra, bản thân cá nhân tôi, tôi không mong sẽ được nhìn thấy những
điều nầy ngay trong kiếp sống nầy, nhưng đau khổ về những vấn đề này quả thật
là không ích lợi cho ai cả; hạnh phúc đến từ việc có được những gì mình mong
đợi quả thật không phải là điều quan trọng lắm.
Niềm vui thật sự không tùy thuộc vào việc chạy theo những lợi dưỡng vật chất,
hay vào việc thế giới đang xảy ra theo chiều hướng chúng ta chờ đợi, hay vào
việc con người đang ứng xử theo cách mà họ nên ứng xử, hay trên sự kiện là
chúng ta đạt được tất cả những gì chúng ta yêu thích và mong muốn. Niềm hoan hỷ
không tùy thuộc vào bất cứ cái gì hết ngoài chính thái độ sẵn sàng khoan dung,
tử tế, và từ ái của chính chúng ta. Niềm hoan hỷ thật sự chính là cái kinh
nghiệm trưởng thành và thuần thục của sự hiến dâng, chia sẻ và đùm bọc lẫn
nhau, và phát huy khoa học về sự lương thiện. Sống đức hạnh chính là niềm vui
chúng ta có thể có được trong cảnh giới làm người nầy.
Do
đó, cho dù những gì đang xảy ra trong xã hội hay những gì người khác đang làm
nằm ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta -- tôi không thể đi khắp nơi và làm
cho mọi việc xảy ra như ý tôi muốn -- nhưng tôi vẫn có thể tử tế, khoan dung,
kham nhẫn, làm việc thiện lành, và tăng trưởng đức hạnh. Đó là những gì tôi có
thể làm được, và đó là điều tốt cần làm, và không ai có thể ngăn cản tôi làm
việc nầy. Cho dù xã hội có xấu xa hay thối nát đến đâu đi nữa, điều nầy cũng
chẳng có ảnh hưởng gì hết đến khả năng sống đời đức hạnh và gieo trồng căn lành
của chúng ta.
ĐEM LẠI LỢI ÍCH CHO XÃ HỘI
Hiện tại, thay vì bốc lột, đòi hỏi và bòn rút không ngừng, phê bình chỉ trích,
và miệt thị xã hội, chúng ta có thể cải thiện xã hội bằng cách giúp đở và
khuyến khích xã hội làm điều thiện. Điều này không những đem lại niềm vui cho
riêng chúng ta mà còn đem lại phúc lợi cho xã hội. Chúng ta có thể cống hiến
cho xã hội bằng cách sẵn sàng tự nguyện sống sao cho bản thân chúng ta không
còn sợ hãi và giúp cho người khác cũng không còn sợ hãi, nói khác đi chúng ta
sống với tinh thần vô úy và bố thí sự vô úy của đạo Phật.
Chúng ta có thể nuôi dưỡng thái độ này bằng cách sống sao để chúng ta biết tự
trọng. Khi có lòng tự trọng, chúng ta sẽ thấy là người khác cũng kính trọng
chúng ta. Và khi người khác kính trọng chúng ta, họ sẽ lắng nghe, chú ý, ngưỡng
mộ và noi gương chúng ta. Qua đó, ngày càng nhiều người sẽ cảm nhận được niềm
vui và tinh thần tự do sống trách nhiệm với cuộc đời.
Trách nhiệm cá nhân là nền tảng cho cả xã hội vì xã hội là tập thể gồm những cá
nhân. Nền đạo đức chân chính và tốt đẹp phải đến từ trí tuệ của từng cá nhân.
Nếu bạn áp đặt đạo đức trên con người, đạo đức sẽ thành luật pháp và luật pháp
có thể rất áp bức và nặng nề. Chúng ta có thể lo ngại khi nghe nói đến hai chữ
"đạo đức" vì chúng ta biết đạo đức có thể trở thành độc đoán nếu
người ta áp đặt nó.
Nhưng khi chúng ta hiểu rõ đạo đức, nó sẽ mang lại niềm vui và lòng tự trọng,
và khi chúng ta kính trọng bản thân mình, chúng ta sẽ tôn trọng quyền sống của
những người khác. Đó chính là niềm an lạc. Vừa biết tự trọng vừa biết quan tâm
đến cuộc sống của người khác sẽ đem lại cho chúng ta cảm giác rất an vui và dễ
chịu. Nhưng tình cảm nầy phải đến từ trí ruệ và sự trưởng thành của nội tâm. Nó
phải đến từ trách nhiệm cá nhân và sự hiểu biết về chính bản thân của con
người.
Tôi không bàn về sự tử tế và lương thiện hào nhoáng bên ngoài -- một loại mặt
nạ, một bề mặt đẹp đẽ của sự thánh thiện -- nhưng chủ yếu về sự thánh thiện sâu
thẫm, nằm trong bản chất nội tại của các pháp. Đức hạnh là cái gì đó rất sâu,
tiềm ẩn và xuyên thấu. Chúng ta phải có trí tuệ, nhạy cảm, khả năng tiếp thu,
và thông minh để trở thành người thật sự đạo đức.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự