Ở những phần không thể nắm bắt, con người chỉ biết dựa vào thế lực
thần linh quyền năng tuyệt đối, độ lượng, khoan dung. Vì vậy mà từ xa xưa người
ta đến cửa chùa mong được cất bớt gánh tội chốn dương trần để được siêu thoát
khi về cõi chết, hoặc hoá giải những tai ương trong cõi nhân sinh.
Lễ phật trở thành truyền thống tâm linh suốt ngàn năm
lịch sử. Ngày nay, khi cuộc sống thêm nhiều cạnh tranh, trông gai và khó nhọc
thì người ta càng thấy thân phận mình mong manh, cuộc sống mình thiếu thốn,
nhân tâm mình nặng nợ… khiến cửa chùa có biết bao nhiêu kiểu cầu xin với những tham
vọng, ước muốn, lo sợ, ăn năn của người đời.
Mặc cả với thánh thần
Phủ Tây Hồ ngày đầu năm “ngựa xe như nước, áo quần như
nêm”. Nam thanh, Nữ tú lẫn ông già, bà cả, kẻ sang người nghèo, người già khăn
vấn áo chùng, thanh niên áo khoác quần tây, trẻ con má hồng áo đỏ đều hoan hỉ với
hương nhang, vàng mã, hoa quả và ăm ắp ước vọng trần thế đem đến cửa thánh thần.
Đoạn đường vào phủ dài hàng km, những hàng quán chất ngất hàng mã, tiền vàng,
hương nhang, hoa quả, chuông khánh, tràng hạt, sách bói toán, áo quần, cơm phở,
cốm, xôi, bánh kẹo… cửa thiền từ sáng sớm đã rộn rịp đông đúc người vào khấn lễ,
cầu xin đấng trời phật trông xuống rộng lòng ban cho kẻ mọn một năm mới đầy đặn
tài lộc, tiền duyên, công danh hoan lộ…
Người đàn ông có sắc vóc tầm thước, tóc xịt gôm mượt
bóng, tay đeo nhẫn vàng choé lầm rầm khấn vái: “Xịt… xịt… xịt… con nam mô a di
đà phật, con lạy chín phương trời, lạy mười phương đất… Hôm nay, ngày… con là…
có hương nhang, lễ vật bao gồm… đến cửa thánh cầu mong các ngài trị cho vợ con
chừa thói ghen ngược, bắt nạt chồng, xin cho lão trưởng phòng bị giáng chức để
con lên thay… các ngài linh thiêng cứ phù hộ cho con được toại nguyện, con xin
đáp tạ hậu hĩnh”. Chẳng biết những lời khẩn cầu của người đàn ông đó có được toại
nguyện hay không nhưng cứ xem thái độ và những lời nói ra miệng đó thì biết rằng
người này đến cửa phật chẳng phải để sửa mình mà chỉ với mục đích cầu xin, đổi
chác… Ừ thôi thì cõi nhân sinh vốn chỉ tồn tại được bởi những ham muốn và hy vọng
dù tốt hay xấu như vậy. Nhưng có những điều ước lại hết sức kỳ cục, kểu đã xin
thì xin cho bõ, thế là người ta đến nơi thanh tịnh này để xin cả những điều rất
nực cười như xin cho con Lu (chó) khỏi ốm, xin cho Sếp bị lật ghế, xin cho nhà
hàng xóm bị mất trộm, xin xem được bản quy hoạch đền bù đất đai của nhà chồng, xin
cho con trai tỉnh táo “lìa mặt” được con “quỷ dữ” (bỏ vợ)… Lại có người thì “xin
cho năm nay chồng con nhận được công trình cải tạo đoạn đường km số 2 đến km số
8 của huyện X, hay xin người giúp cho bộ hồ sơ giấy tờ đất thổ cư (từ đất nông
nghiệp chuyển sang). Có chị xin người bắt “anh ấy” giải quyết “dứt điểm, rõ
dàng” với mụ vợ nhà quê… Nhiều người thỉnh cầu thì cứ lấm lét nhìn người lạ
không muốn cho người bên cạnh nghe trộm, lại có người khấn rất to, cứ như sợ phật
không nghe thấy thì không phù hộ cho. Tất cả những lời khẩn cầu đó đều được ra
giá với trời phật là “sẽ đáp tạ hậu hĩnh”. Đó là một mâm đầy hương hoa, bánh kẹo,
xôi oản, rượu thuốc, tiền vàng… Có mâm vài trăm nghìn, có mâm vài chục nghìn…
người người đội những mâm lễ đầy ặc đó trên đầu hân hoan vào cửa phật và hy vọng
lễ hậu thế sẽ được trời phật phù hộ cho những lời thỉnh cầu nhanh chóng thành sự
thật.
Những câu chuyện đầy phàm tục ấy ra đời cũng bởi những
niềm tin mù quáng đến nực cười. Người ta cho rằng chỉ cần hương nhang lễ hậu là
có thể đổi thay thế sự, biến trắng thành đen, muốn gì được nấy. Cửa chùa là chốn
thanh bần. Vào chùa là để soi mình ra sao, xem tâm mình đã thanh, lòng mình đã
sạch chưa rồi để mà sửa mình, để mà sống cho tốt hơn, cho cao quý hơn. Thế
nhưng không ít người vào chùa chỉ để cầu xin lợi lộc, công danh, tiền bạc… Những
dục vọng thấp hèn được người ta mang cả vào cửa phật để bày biện. Thôi thì vạn
lời cầu xin, nghìn lời ước muốn. Chẳng ai cấm được ước mơ. Lòng người thì vô hạn.
Cả buổi sáng ở cửa Phủ mà thấy quá ít người đến lễ Thánh với tấm lòng bạc hậu,
chỉ thắp một nén nhang, lời không, ý không… hay chỉ đơn giản là đến vãn cảnh
chùa.
“Thiện căn ở tại lòng ta”
Con người chẳng thể sống nếu không có gì để bám, mà tư
tưởng lại là thanh vịn quan trọng trong cuộc đời mỗi người. Đến cửa phật cũng
là một cách để tu sửa mình, để soi mình, đứng trước trời phật cao thiêng mà ngẫm
mình, mà rèn cho tâm mình thanh thản, mà sống cho thanh sạch, dẫu có bần hàn.
Cõi tâm linh cao thiêng ẩn chứa những điều mà con người không nắm bắt được. Con
người luôn được xem là trung tâm của vũ trụ, của cõi nhân sinh. “Nhân chi sơ
tính bản thiện”, mọi người khi sinh ra ai cũng như ai, còn đức độ và tài năng
phải do rèn luyện mà có, chứ tâm không sáng, tài không cào thì dù có mang mâm lễ
to bằng quả núi thì cũng chỉ hư không mà thôi.
Có câu chuyện tiếu lâm thế này: Một người hỏi một vị
thần, thưa Ngài, một nghìn năm đối với ta chỉ là một phút. Người kia hỏi tiếp, thưa
Ngài, một nghìn đôla đối với ngài là gì? Thần đáp, một nghìn đôla đối với ta chỉ
là một xu. Người kia bèn lập tức quỳ xuống và nói: Lạy Ngài, hãy rủ lòng thương
ban cho con xin một xu mọn của Ngài. Thần bảo, được, hãy chờ ta một phút!
Cửa chùa là chốn thanh bần, người người đến đây để
mong được tu dưỡng tâm linh. Nay xã hội phát triển chóng mặt, thời đại kim tiền
còn quá ít chỗ cho những điều thanh sang, sạch sẽ, chốn cửa thiền nay cũng đón
nhận nhiều hơn những chuyện buồn vui trên trần thế. Danh lợi, dục vọng, tiền bạc…
những mưu cầu và toan tính để giành giật, để chiếm đoạt, để sở hữu những thứ kg
phải của mình… đang len dần vào cõi tâm linh nơi cửa phật. Lời phật dạy đã được
cụ Tiên Điền ghi lại:
“Thiện căn ở tại lòng ta - Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài”. Chăm sóc linh hồn bằng sự kính lễ, bằng tâm niệm chân thành cũng là cách
để tự sửa mình. Tuy nhiên, nếu đem sự thành tâm, kính lễ ấy mà chuyên chở những
dục vọng “kính chẳng bõ phiền” mà chỉ thêm hoen ố cửa thiền.
Nguồn tin: Thể Thao
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự