Nếu những điều kiện bên ngoài có thể cho chúng
ta một hạnh phúc miên viễn, thì những người giàu có chắc hẳn được nhiều an lạc;
và những ai không giàu sẽ không sung sướng hay hạnh phúc. Nhưng cuộc sống cho
thấy rằng: có bao người sống rất hạnh phúc nhưng chẳng giàu; trong khi bao kẻ
giàu sang lại đau khổ.
Chẳng
hạn ở Ấn Độ, có rất nhiều nhà thông thái, nhiều đạo sĩ cao thâm, và bao Phật tử
sống một cuộc đời rất khiêm nhường nhưng đầy an lạc. Lúc mà họ hạnh phúc nhất
là lúc mà họ từ bỏ sự chạy theo cái tâm lăng xăng lộn xộn. Sự từ bỏ ngã mạn,
giận dữ, si mê, bám víu, v...v... Càng xa lánh những thứ này thì trong tâm họ
càng an lạc.
Những
đạo sĩ nổi tiếng như Naropa của Ấn Độ và Milarapa của Tây Tạng, chẳng có gì hết
nhưng tâm hồn họ tràn đầy an lạc. Họ đã từ bỏ cái tâm lăng xăng, nguyên nhân
của những đau khổ.
Chính
sự giải thoát, giác ngộ đã đem hạnh phúc lại cho họ. Như Milarapa, có lúc nhịn
ăn cả nhiều ngày, sống trong hang đá, nhưng vẫn được xem là người hạnh phúc
nhất trần gian. Bởi vì ông đã từ bỏ ba thứ độc: tham, sân, si; và do đó được an
lạc, hạnh phúc. Khi mà cái tâm lăng xăng lộn xộn không còn nữa, thì hạnh phúc,
an lạc hiện hữu.
Nếu
hạnh phúc tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài thì những nước giàu có như Mỹ
chắc hạnh phúc lắm lắm. Bao người cố gắng bắt chước Mỹ quốc vì nghĩ rằng giàu
như thế mới hạnh phúc. Riêng tôi nhận thấy rằng tôi tìm được an lạc nơi những
quốc gia thiên về tâm linh như Ấn Độ và
Ở
những quốc gia này, người ta dễ tìm được an lạc. Vì Ấn Độ là một nước tâm linh,
nên ta dễ tìm được sự bình an nơi tinh thần. Khi mà bạn nhìn thấy những xã hội
vật chất và những người sống trong xã hội đó, tinh thần bạn rất dễ bị dao động.
Khi mà vật chất bành trướng thì con người càng lúc càng bận rộn và nhiều vấn đề
bắt đầu xuất hiện. Con người không còn thời gian để nghỉ ngơi, người ta bận
rộn, lo lắng, và bất an. Nếu hạnh phúc hoàn toàn tùy thuộc vào những yếu tố bên
ngoài, thì những đất nước dư ăn dư mặc như Thụy Sĩ hay Mỹ đã thực sự được an lạc,
hạnh phúc; họ đã không cãi nhau, đánh nhau, và không có bạo động.
Nhưng
sự thực không phải vậy. Như thế có nghĩa là có điều gì đó thiếu sót.
Chứng
tỏ rằng họ đã sơ sót trong việc tìm kiếm hạnh phúc.
Về
phương diện vật chất, những nước Âu, Mỹ là hàng đầu thế giới, nhưng có biết bao
là vấn đề đang tiếp tục hủy hoại sự an lành và hạnh phúc của họ.
Họ
đã thiếu sót cái gì? Thưa, đó là sự trau dồi bản tâm.
Họ
đã lo chạy theo những thứ bên ngoài và quên mất bản tâm, quên trau dồi mặt tinh
thần. Những nước Tây phương tiến triển rất nhanh về mặt vật chất; nhưng vì mải
lo bên ngoài mà họ quên hẳn sự phát triển về mặt tâm linh.
Sự
phát triển vật chất tự nó không phải là không tốt, nhưng sự phát triển về tâm
linh còn quan trọng gấp mấy lần. Hơn nữa sự phát triển về mặt bản tâm có hiệu
quả kiến tạo hạnh phúc lâu dài hơn hết. Bạn không thể nào tìm được an lạc khi
mà bản tâm bạn bị bỏ quên. Khi mà lòng từ được tăng trưởng thì bạn dễ tìm được
sự an bình trong tâm hồn.
Làm
sao có thể so sánh được sự giàu có vật chất với lòng từ bi bác ái, sự yêu
thương, nhẫn nại, sự diệt trừ bạo động, và sự từ bỏ cái tâm lăng xăng lôn xộn.
Cho dù bạn có một núi kim cương cũng không thể nào so sánh được với sự bình an
trong tâm hồn. Kẻ sở hữu nhiều châu báu vẫn bị chi phối bởi sân hận, tham lam...
Nếu
có ai đó mắng họ, tức thì họ nổi giận và muốn chửi lại hay đánh lại. Một người
biết tu tập thì không phản ứng như thế. Họ sẽ tự nói: "Kẻ kia mắng mình
làm mình buồn khổ, và nếu mình mắng lại họ thì họ cũng sẽ buồn, sẽ khổ như
mình. Vì đã biết tu tập từ tâm, nên không mắng chửi lại." Nếu biết nghĩ
như thế thì sẽ không làm ai đau khổ.
Khi
mà bạn bè của tôi nói hay làm điều gì mà tôi không thích, sự khó chịu và bực
bội bắt đầu nổi lên trong lòng, tôi muốn nói lại để làm cho họ đau; nhưng tôi
tự chủ lại và tự ngẫm, "Tôi và họ đều muốn tránh đau khổ và mong hạnh
phúc. Thế thì tôi không nên nói hay làm những điều gây buồn phiền cho họ. Đó là
tôi tu."
Nhờ
nghĩ như thế, cơn giận liền tan biến như bọt nước bong bóng. Ban đầu bong bóng
tựa như là một khối đá rắn chắc, nhưng thình lình nó tan biến. Lúc đầu tựa như
là chúng ta không thể thay đổi được quan niệm, nhưng nếu biết áp dụng phương
pháp đúng cách, thì cơn giận tức khắc tan biến như bọt bong bóng nước. Đâu còn
điều gì để mà tức giận nữa.
Bạn
nên tập kiên nhẫn, đừng để cho cơn giận bốc lên, nhớ rằng cơn giận làm cho tâm
trí bất an, hủy hoại sự thanh bình của chính bạn và luôn cả những người chung
quanh cũng bị vạ lây. Cơn giận làm mặt chúng ta xấu đi. Không cần biết bạn đẹp
như thế nào, một khi cơn giận xuất hiện thì cho dù có điểm trang khéo đến đâu,
bạn cũng không thể che giấu được sự xấu xí, hằn học trên gương mặt.
Bạn
có thể nhận diện được sự giận dữ trên khuôn mặt mọi người. Bạn sẽ sợ hãi khi mà
phải đối diện với một kẻ đang sân hận. Khuôn mặt họ lộ vẻ dữ tợn, đó là phản
ảnh của sự tức giận từ bên trong. Đó là một năng lượng có những rung động rất
xấu, chúng ta nên từ bỏ nó. Vì sân hận làm cho mọi người bất an và mất hạnh
phúc. Sự thực hành đúng chính pháp, sự thiền định đem lại lợi ích cho mọi người.
Sự
thiền định giúp cho chúng ta và mọi người chung quanh được an lạc. Một hành
động đúng theo chính pháp làm lợi ích cho mình, cho người. Như tôi đã nói ở
trên, sự nhẫn nại quý giá gấp triệu lần núi kim cương. Làm sao có được sự bình
an của tâm hồn nếu chỉ lo góp nhặt kim cương? Bạn còn có thể bị nguy hiểm đến
tánh mạng nếu có quá nhiều kim cương. Không thể nào chúng ta có thể so sánh
được sự tốt lành của bản tâm với sự sung mãn về vật chất.
Mọi
người trong chúng ta đều muốn an vui, hạnh phúc; do đó chúng ta phải thực hành
chính pháp. Thực hành chính pháp cho đúng nghĩa không phải là tụng kinh nhiều,
lễ lạy luôn luôn và mặc áo tràng. Thực hành chính pháp là làm tăng trưởng tâm
hồn, làm cho cái tâm được trong sạch hơn... Chúng ta có rất nhiều những nhân tố
xấu bên trong như: tâm lăng xăng lộn xộn, si mê, ngu dốt, sân hận... và những
nhân tố tốt bên trong như: tình thương, lòng bác ái, v.v...
Chúng
ta ai ai cũng có sẵn những nhân tố tốt cũng như xấu. Thực hành chính pháp là
làm tăng trưởng những cái tốt, diệt trừ những cái xấu. Đây là một cách thực
hành chính pháp mà ta nên tu tập. Có rất nhiều cấp bậc đau khổ, vì vậy chúng ta
cần sự bảo vệ tối đa cho chính mình. Chính pháp như là một sợi dây thừng được
quăng ra cho ai đó đang sắp rơi vào vực thẳm.
Chính
pháp bảo vệ và giữ gìn một người, không cho họ rơi vào những thế giới đau khổ -
thế giới của địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Hơn nữa, chính pháp bảo giúp chúng
ta không rơi vào ba đường ác khi chúng ta còn trong vòng sinh tử luân hồi.
Chính
pháp giúp chúng ta phân biệt được chính tà và bảo vệ chúng ta cho đến lúc chúng
ta đạt giải thoát, được giác ngộ thành Phật; và sự an lạc tối thượng là đây.
Cái chết được tiếp nối ở một giai đoạn gọi là "trung ấm" (Bardo-Tây
Tạng), sau giai đoạn này chúng ta thác sinh một trong sáu thế giới - Thọ sinh,
sống, chết, giai đoạn trung ấm, và đầu thai. Đây là một chu kỳ không ngừng
nghỉ, chúng ta chạy quanh, lặp đi lặp lại những kinh nghiệm buồn vui lẫn lộn,
vì nhận thức sai lầm.
Khi
chúng ta thực hành chính pháp, chính pháp bảo vệ và dẫn dắt chúng ta khỏi những
lầm lẫn tai hại khi ta còn trong vòng sinh tử. Chính pháp có nhiều trình độ, và
luôn dẫn dắt, bảo vệ những ai thực hành nghiêm chỉnh. Cơ thể và tâm trí của
chúng ta luôn làm chúng ta đau khổ. Tại sao như vậy? Bởi vì tâm trí chúng ta
chưa được giải thoát khỏi vô minh. Và khi còn vô minh thì tâm trí và cơ thể đều
chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Cơ thể chúng ta "khổ" khi bị nóng quá, lạnh
quá, đói khát, sinh, bịnh, già, chết, v.v...
Còn
có thân, thì chúng ta còn chưa thoát được những nỗi khổ này. Những hạt giống
đau khổ đã nằm sẵn ở trong mỗi chúng ta. Sự luân hồi sinh tử của chúng ta là do
nơi thân này, tâm này. Thân và Tâm này luôn làm chúng ta lo lắng và không bao
giờ để cho chúng ta yên tịnh. Thân và Tâm cộng thêm Vô Minh, và bắt đầu từ đó
là Nghiệp được tạo ra, rồi Nghiệp đó lại dẫn dắt chúng ta đi trong vòng luân
hồi.
Luân
hồi là một vòng tròn như bánh xe. Nó quay như thế nào? Những hợp thể, thân và
tâm, tiếp tục từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Những kết tập của kiếp
trước và kiếp sau liên tục, không gián đoạn. Chúng tạo ra một vòng tròn tiếp
nối, giống như là người đi xe đạp vậy.
Bản
ngã cũng thế. Nó dắt chúng ta chạy quanh từ kiếp sống này sang kiếp sống kế
tiếp; đầu thai trở lại theo nghiệp lực đã gieo. Cái nghiệp mà ta đã tạo ra nơi
thân và tâm. Dựa vào những dự kiện đã huân tập mà ta thọ thai nơi cõi người,
súc vật, trời hay địa ngục... Những hợp thể đưa dẫn chúng ta đi chẳng khác nào
con ngựa chở người cỡi nó.
Từ
vô thỉ đến nay, trải qua bao nhiêu kiềp sống, chúng ta đã không tu tập để tự
giải thoát khỏi những phiền não, nghiệp lực. Do đó, thân và tâm chúng ta lúc
nào cũng trong vòng đau khổ, luôn lặp đi lặp lại những lỗi lầm đã vấp phải. Nếu
chúng ta thoát được phiền não thì không khi nào chúng ta lại lặp lại những đau
khổ đã trải qua.
Một
khi mà giải thoát được khỏi vòng sinh tử, tức là khổ đau chấm dứt. Khi không
phải trở lại mang thân sinh tử thì đâu cần phải có nhà cửa, quần áo, thức ăn,
và những nhu cầu cần thiết khác.
Đâu
có lý do gì để lo lắng, sắm sửa, góp nhặt của cải, chạy theo danh lợi để có cả
trăm bộ quần áo, mặc vào những dịp khác nhau, để có cả trăm đôi giầy, làm việc
đầu tắt mặt tối v...v...
Không
có thân thì đâu có những vấn đề này.
Nhưng
vì có thân này mà phải lao tâm, lao lực suốt cuộc đời, từ lúc "mang
thân" cho đến lúc "bỏ thân"; cũng chỉ lo có bấy nhiêu.
Lạt
ma Tsong Khapa, một đạo sư Tây Tạng, được tôn sùng như Bồ tát Văn Thù Sư Lợi
(Manjushri), vị Bồ tát của Trí Tuệ, trên bước đường tu tập có viết như sau:
"Nếu một người không bao giờ nghĩ đến sự tiến hóa trong vòng luân hồi, thì
không khi nào họ có thể cắt đứt được gốc rễ của sinh tử."
Ví
như một người hay bệnh vì ăn những thức ăn không hợp với thể tạng của họ; nếu
anh ta không chịu để ý để tránh, mà cứ ăn hỗn tạp thì cho dù có uống bao nhiêu
thuốc cũng sẽ không khỏi bệnh.
Cũng
như vậy, nếu chúng ta không chịu tìm hiểu đường đi nước bước của vòng luân hồi,
thì làm sao chúng ta có thể đạt được Niết Bàn.
Muốn
chứng đạt Niết Bàn phải cắt gốc sinh tử. Muốn thành công trong việc cắt gốc
sinh tử thì phải biết tu tập theo chính pháp. Có nghĩa là chúng ta phải nhận
diện được sự vận hành của vòng luân hồi, những nguyên nhân nào đã đưa chúng ta
vào vòng sinh tử. Nhờ hiểu rõ ngọn ngành, chúng ta có thể thực hiện được những
điều cần thiết để thoát vòng sinh tử.
Lạt
ma Tsong Khapa tóm tắt như sau: "Tôi là một đạo sĩ đã thực tập như vậy để
được giải thoát; và tôi yêu cầu tất cả những ai đang trên đường giải thoát nên
thực tập y như vậy." Vị đạo sư này đã giải thoát và khuyên chúng ta
nên thực tập như người.
Điều
quan trọng trước tiên là chúng ta phải có ước muốn được thoát khỏi luân hồi; kế
đến là nhận diện luật tiến hóa trong vòng sinh tử và cuối cùng thì cắt gốc sinh
tử.
Để
hiểu rõ về sự tiến hóa của chu trình sinh tử, chúng ta phải hiểu cặn kẽ về mười
hai mắt xích, và những căn nguyên của chúng phụ thuộc lẫn nhau.
Mười
hai mắt xích này là nguyên nhân dẫn chúng ta chạy quanh vòng sinh tử. Trong quá
khứ, vì Vô Minh che đậy, chúng ta tích lũy Nghiệp để rồi thọ sinh ra thân này.
Trong cơn hấp hối, một tích tắc trước khi lìa đời, chúng ta còn bám víu, không
muốn bỏ cái thân, không muốn chết ... Khi sang qua thân trung ấm, và kế đến là
vào bào thai mẹ. Trứng lớn dần và những cảm giác bắt đầu tăng trưởng. Sau đó,
là sự xúc chạm, phản ứng của những cảm thọ xuất hiện. Thế là sự đầu thai bắt
đầu... cho đến lúc chúng ta già... và những gì còn lại chỉ là kinh nghiệm của cái
chết.
Trong
cuộc sống hiện tại không có an lành; từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, chúng ta
luôn luôn phải chịu đau khổ: đau đớn lúc chào đời, không hài lòng với hoàn
cảnh, gặp cảnh trái ngang, có nhiều lo lắng, sợ phải xa lìa người thân, sợ mất
của, sợ bệnh hoạn, sợ tuổi già và sợ chết.
Tất
cả những vấn đề này là đều từ nơi nghiệp lực mà ra. Nghiệp có được là từ vô
minh. Bởi thế cái gốc rễ của vòng sinh tử đều bắt đầu từ Vô Minh. Sự vô minh
bắt đầu bằng cái "TA”. Cái bản ngã này không có thật. Nhưng vì vô minh,
chúng ta xem nó là thật, là thật hiện hữu. Vô Minh là nguyên nhân của tất cả
khổ đau.
Chúng
ta chỉ được Niết Bàn khi mà phá bỏ được Vô Minh - gốc rễ của sinh tử. Nếu không
nhổ được gốc Vô Minh, thì sẽ không có Niết bàn. Muốn được Niết Bàn phải nhổ gốc
sinh tử, do đó chúng ta phải thực hành theo Chính pháp. Một khi gốc sinh tử
được cắt đứt thì Niết Bàn hiện tiền. Nhưng mà một khi đạt được giải thoát, ta
phải nghĩ đến những chúng sinh khác, trong đó có cha mẹ, anh chị em trong nhiều
đời nhiều kiếp của chúng ta.
Không
có một chúng sinh nào không tử tế với chúng ta dù trong kiếp này hay kiếp khác.
Ngay trong hiện tại, ít nhiều hạnh phúc của chúng ta đều tùy thuộc vào sự tử tế
của những người chung quanh. Không hẳn chỉ có loài người, mà còn có những chúng
sinh khác bị giết vì chúng ta, và một số còn làm việc cực nhọc để cho chúng ta
được sung sướng. Chẳng hạn muốn có lúa gạo, một số côn trùng bị giết, một số
người phải làm việc dưới ánh nắng gay gắt, v...v...
Do
đó sự sung sướng hàng ngày của chúng ta luôn tùy thuộc vào sự tử tế của các
chúng sinh khác. Được làm người, đây là cơ hội để chúng ta trả những ơn đó.
Những con vật thì ngu dốt và không hiểu chính pháp. Chúng ta làm người có được
cơ hội để học tập và khi đạt giác ngộ thì chúng ta giúp những chúng sinh này
được giải thoát.
Chúng
ta nên suy ngẫm như sau: "Tôi nên ráng tu tập đạt đạo giải thoát để làm
lợi ích cho chúng sinh. Chúng sinh đã tử tế với tôi, và giúp đỡ tôi rất nhiều.
Những chúng sinh này đang đau khổ, trong đó biết đâu lại chẳng có cha mẹ nhiều
đời nhiều kiếp của tôi. Là con, tôi phải có bổn phận giúp đỡ... Con đường chính
pháp là tâm từ. Và tâm từ rộng lớn là tâm Bồ Tát, với ý nghĩ muốn thành Phật để
độ chúng sinh thoát khổ. Và đây là tâm từ mà chúng ta nên phát triển.
Tác giả bài viết: Lama Zopa Rinpoche
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự