Vu lan, tiếng Phạn
là Ullambana, Hán phiên âm là Vu lan bồn và dịch nghĩa là Giải đảo huyền. Giải
là mở, đảo là ngược và huyền là dây. Giải đảo huyền là mở sợi dây treo ngược.
Trong đời sống
hàng ngày, khi đánh mất chất liệu hiếu kính, trí tuệ và từ bi là ta đánh mất
chất liệu căn bản của đạo đức, đánh mất căn bản phước báu của cõi người, cõi
trời, phước báu của các cõi hiền thánh và chư Phật; như vậy là ta đã treo ngược
đời sống của chúng ta.
Ngược lại, khi ta
đang thực tập hiếu kính với ai là ta đang mở sợi dây treo ngược cho ta và cho
cả người ấy.
Trước hết, ta cần
phải thực tập và thể hiện sự hiếu kính đối với cha mẹ, để mở sợi dây ấy cho ta
và cho cả cha mẹ ta.
Cha mẹ ta liên hệ
với ta bằng chất liệu tình cảm của nhân duyên huyết thống. Tình cảm ấy không
những gắn bó với ta trong một đời mà nhiều đời; không những trong một kiếp mà
nhiều kiếp. Tình cảm ấy, không những đã từng treo xuôi chúng ta mà cũng đã từng
treo ngược chúng ta. Treo xuôi chúng ta, vì ta đã từng thọ ân, đã từng biết
cách để trả ân. Treo ngược chúng ta, vì ta đã từng thọ ân mà không những vô ân
lại còn bội nghĩa.
Thọ ân và biết ân,
vì ta thấy rất rõ trong quan hệ tình cảm của nhân duyên huyết thống, nếu không
có cha mẹ ta thì không bao giờ có ta. Và không có ông bà tổ tiên nội ngoại thì
cũng không bao giờ có cha mẹ ta.
Vì vậy, khi ta thể
hiện sự hiếu kính đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên nội ngoại, trước hết ta phải
biết chăm sóc trái tim huyết thống của ta, để cho tinh thần của trái tim ấy
không bị thương tích bởi những ý nghĩ, lời nói và hành động không lành mạnh
hàng ngày.
Ý nghĩ không lành
mạnh là ý nghĩ mang những chất liệu ích kỷ, chỉ sống theo cá tính và biểu hiện
những sinh hoạt cá tính theo bản năng ấy, qua lời nói và việc làm, khiến không
những làm thương tổn trái tim ta, làm thương tổn trái tim của cha mẹ, ông bà tổ
tiên nội ngoại ta, trong quá khứ và hiện tiền, mà cũng còn làm thương tổn trái
tim của nhiều thế hệ con cháu chúng ta trong tương lai nữa.
Vậy, nếu ta muốn
hiếu kính với cha mẹ, với tổ tiên ông bà nội ngoại trong quá khứ và hiện tiền,
thì điều kiện trước tiên là phải biết chăm sóc trái tim huyết thống của ta, để
trái tim ấy luôn luôn ở trong trạng thái trong sáng và lành mạnh. Mọi lời nói
và hành xử hiếu kính của ta phải đi từ trái tim ấy, mới có khả năng tháo gỡ
những sợi dây treo ngược trong đời sống của ta và của những người ta thương
yêu.
Và trong đời sống
tâm linh, ta cần phải có sự hiếu kính với ai? Ta cần phải có sự hiếu kính đối
với thầy, với chúng Tăng và Tam bảo.
Thầy là vị đại diện
chúng Tăng và Tam bảo để dạy dỗ cho ta, từ một con người không biết bỏ điều ác
lại bỏ được những điều ác; từ người không biết gì về điều thiện trở thành người
biết yêu mến và thực hành điều thiện; từ một người chuyên sống với tâm ý thủ
lợi lại biết xả lợi mà hướng tâm đến Vô thượng bồ-đề.
Thầy còn thay mặt chúng
Tăng và Tam bảo trao truyền giới pháp cho ta, đưa ta từ bóng đêm bước ra ánh
sáng, từ ánh sáng bước tới ánh sáng; nuôi dưỡng giới thân, tuệ mạng cho ta, đưa
ta đi tới với nếp sống lành mạnh, an hòa và phương trời cao rộng.
Thầy đối với ta ân
đức như vậy, nhưng nếu ta không biết ân mà sống vong ân, bội nghĩa thì ta đã
treo ngược đời sống của ta và cũng treo ngược những lời dạy tốt đẹp của thầy
đối với ta, khiến cho người đời không những khinh khi ta mà còn khinh khi cả
thầy của ta nữa!
Ta đến với thầy,
nhưng ta không sống với đời sống của hiếu kính, trí tuệ
và từ bi, khiến cho thầy không những không yên lòng, mà đôi khi còn vì ta khởi
sinh phiền não. Phiền não trong đời sống của thầy khởi sinh là do ta, và như
vậy ta đã đem dây phiền não mà trói thầy, khiến cho thầy phải sống ngược với
đời sống giải thoát và giác ngộ.
Vì vậy, mùa Vu lan
về ta phải biết thực tập hiếu kính, trí tuệ và từ bi để mở sợi dây treo ngược
cho ta; và ta phải biết mở sợi dây treo ngược nơi những người đang treo ngược
đối với thầy của ta nữa.
Ở đời, không có vị
thầy nào nhìn học trò dễ thương mà không vui. Danh dự của thầy là danh dự của
học trò và danh dự của học trò cũng là danh dự của thầy, ta phải thấy cho rõ
điều ấy để thực tập tâm hiếu kính, trí tuệ và từ bi, để mở hết tất cả những sợi
dây đang treo ngược ta và thầy của ta vậy.
Ta hiếu kính đối
với chúng Tăng, bởi chúng Tăng là đoàn thể trang nghiêm thánh thiện, lấy thanh
tịnh và hòa hợp làm bản chất, lấy giải thoát làm lẽ sống, lấy trí tuệ làm sự
nghiệp và lấy hoằng pháp độ sinh làm bản nguyện.
Thầy ta sinh ra ta
từ biển cả giới pháp thanh tịnh và hòa hợp của Tăng, được dìu dắt, nâng đỡ và
xác chứng trong đời sống cao thượng của Tăng và đã trở thành thành viên chính
thức của Tăng. Nếu không có chúng Tăng, ta không bao giờ có thầy. Ngày nay, ta
có thầy dạy dỗ và dìu dắt ta trên con đường học đạo, công đức ấy của thầy là
công đức của chúng Tăng, vì vậy mà ta hết lòng hiếu kính với chúng Tăng là để
báo đáp ơn thầy. Muốn báo đáp công ơn của thầy, không gì hơn là phải thực hành
hiếu kính đối với chúng Tăng.
Người nào biết
hiếu kính đối với chúng Tăng là người ấy đang ngày đêm nỗ lực thực hành hạnh
trí tuệ và từ bi để cúng dường thầy mình và chúng Tăng vậy.
Và tại sao ta phải
hiếu kính với Tam bảo? Tam bảo là Phật, Pháp và Tăng. Về ý nghĩa, ta có Tam bảo
đồng thể, Tam bảo xuất thế gian và Tam bảo thế gian trú trì.
Tam bảo đồng thể
Tam bảo trong ba
đời và mười phương cùng một thể tính giác ngộ, cùng một pháp tính bình đẳng,
không sinh diệt và cùng một Tăng thể thanh tịnh, hòa hợp, sự lý thống nhất vô
ngại. Không những vậy, mà Phật còn đồng thể với Pháp và Tăng; Pháp và Tăng cùng
đồng thể với Phật; Phật và Tăng đồng thể với Pháp; Phật và Pháp đồng thể với
Tăng nữa. Vì là đồng một thể tính giác ngộ, không sinh diệt, thanh tịnh, nên
bản thể của Phật, Pháp, Tăng là thường trú khắp cả pháp giới và viên dung vô
ngại.
Tam bảo xuất thế gian
Trong đó, Phật bảo
xuất thế là chỉ cho chư Phật trong mười phương đã thành tựu được đoạn đức, trí
đức và ân đức. Đoạn đức là do đoạn trừ hết sạch phiền não của tâm mà đức hạnh
sinh khởi. Trí đức là do đoạn trừ hết sạch những sai lầm của tri kiến mà đức
hạnh sinh khởi và ân đức là do thành tựu những hạnh nguyện độ sinh mà đức hạnh
sinh khởi. Phật bảo xuất thế là những Bậc giác ngộ đã thành tựu hoàn toàn ba
đức ấy, như Đức Phật Thích-ca, Phật A-di-đà, Phật Dược Sư,…
Pháp bảo xuất thế
gian là chỉ cho các pháp hành dẫn đến đời sống giải thoát như: Bát chánh đạo,
Giới Định Tuệ, các pháp quán thuộc Tứ thánh đế, hay các pháp quán lưu chuyển và
hoàn diệt của pháp Mười hai duyên khởi, các pháp quán về Không, Vô tướng và Vô
tác, hay là pháp quán về Khổ, Không và Vô thường… Do thực hành các pháp này mà
hành giả đoạn tận hết thảy lậu hoặc, dẫn đến đời sống xuất thế, thoát ly sinh
tử.
Tăng bảo Xuất thế
là chỉ cho đoàn thể của Tăng, mà trong đó các thành viên đã đoạn trừ hết sạch
phiền não, chứng đắc các thánh quả giải thoát.
Tam bảo thế gian trú trì
Phật bảo thế gian
trú trì là chỉ cho những hình tượng của Đức Phật được thờ tự trong các chùa
tháp khắp thế gian.
Pháp bảo thế gian
trú trì là chỉ cho ba tạng Kinh, Luật, Luận đang được thờ tự và lưu truyền ở
trong thế gian.
Tăng bảo thế gian
trú trì là chỉ cho những đoàn thể xuất gia tối thiểu là bốn vị Tỳ-kheo hoặc bốn
vị Tỳ-kheo ni đang cộng trú thanh tịnh và hòa hợp với nhau để cùng nhau thực
hành các Tăng sự, như thuyết giới mỗi nửa tháng, mỗi năm an cư trong ba tháng
và cùng nhau tự tứ sau khi xuất hạ trong cùng một trú xứ. Và đồng thời làm
chỗ nương tựa cho thế gian gieo trồng phước đức, hướng dẫn những pháp học và
pháp hành cho quần chúng Phật tử.
Tăng bảo thế gian
trú trì bao gồm các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni đã thành tựu và chưa thành tựu các pháp
giải thoát.
Nếu không có Tam
bảo đồng thể, ta không bao giờ có Tam bảo xuất thế gian; và không có Tam bảo
xuất thế gian ta không bao giờ có Tam bảo trú trì thế gian.
Ngày nay ta có vị
thầy để dạy dỗ cho ta, nâng đỡ ta trên con đường tu tập và giải thoát, là nhờ
có Tam bảo trú trì thế gian.
Ta có Tam bảo trú
trì trong thế gian giúp thầy ta và ta tu học là nhờ có Tam bảo xuất thế gian;
và ta có Tam bảo xuất thế gian để thường tin tưởng, tôn kính và ngưỡng mộ, mà
không không bao giờ biến hoại là nhờ có Tam bảo đồng thể.
Vì vậy, ta hãy
nhìn sâu vào trái tim tâm linh của ta, không những thấy các bậc thầy của ta
đang còn tại thế hay đã qua đời vẫn luôn luôn hiện hữu ở trong trái tim ta, vẫn
luôn có mặt trong những hạnh nguyện tu hành của ta, quý vị luôn nâng đỡ cho ta
những lúc yếu kém và vẫn luôn luôn khích lệ ta những khi ta có chút tinh cần tu
tập.
Không những vậy mà
trong trái tim ta luôn luôn có mặt đầy đủ Tam bảo thế gian trú trì, Tam bảo
xuất thế gian và cả Tam bảo đồng thể. Nên, ta phải nỗ lực tu học tinh cần, phát
khởi được trí tuệ và từ bi, để mở những sợi dây tà kiến đang treo ngược sự hiểu
biết của ta đối với Tam bảo.
Tam bảo thì đồng
thể thanh tịnh mà nhận thức của ta thì ngược lại bị biến thể và ô nhiễm. Tăng
đoàn đệ tử của đức Thế Tôn thì hòa hợp thanh tịnh và xuất thế, mà ta đem những
nhận thức phân hóa, kỳ thị, tổ chức phàm tục của ta để áp đặt và trói buộc lên
đời sống và sinh hoạt cao đẹp, thánh thiện của Tăng. Những nhận thức trói
buộc và treo ngược ấy làm cho ta càng ngày càng quay ngược với Tam bảo và Tam
bảo đã bị ta hiểu theo nghĩa treo ngược và quay ngược.
Mùa Vu lan lại trở
về với những người con Phật, chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực tu tập để không
những mở được những sợi dây đang treo ngược chúng ta, mà còn mở những sợi dây
tà kiến cố chấp, hiểu biết sai lầm chung quanh chúng ta, đang làm đảo lộn và
treo ngược Tam bảo.
Chúng ta nguyện nỗ lực tu tập và chuyển hóa để đưa dòng dõi
huyết thống của chúng ta hội nhập vào dòng dõi tâm linh, nhằm thăng hoa cuộc
sống và thể nhập hoàn toàn với Tam bảo đồng thể, sống với cảnh giới vô sinh bất
diệt của chư Phật.
Những người con
Phật chúng ta hãy cùng nhau, không những nguyện mở những sợi dây đang treo
ngược chúng ta, mà còn nguyện mở cả những sợi dây đang treo xuôi chúng ta trong
những thành công phù phiếm, trong những thuận lợi nhất thời, để dâng lên cúng
dường cha mẹ, thầy tổ, chúng Tăng và Tam bảo, với tất cả tấm lòng hiếu kính,
trí tuệ và từ bi.
Nguồn tin: Thích Thái Hòa
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự