Ba phạm trù nội dung nghĩa lý này chúng luôn luôn phù hợp
với chân lý cuộc sống qua mọi hiện tượng nhân sinh cùng vũ trụ. Trong ba tạng
kinh điển dù là Đại thừa hay Tiểu thừa ba phạm trù tư tưởng nghĩa lý “ Vô thường,
vô ngã, Niết-bàn” này đều có hết, với mục đích là dùng để ấn định bảo chứng cho
những lời dạy của đức Đạo sư, chứ không phải là những lời nói của Ma. Nếu kinh
điển nào mà không mang nghĩa lý của một trong ba phạm trù này thì những kinh điển
đó không phải do đức Đạo sư nói ra.
Theo Kinh Tạp A-hàm quyển 10 thì đức Đạo sư cùng đệ tử
của Ngài đã đề cập và giảng dạy về đề tài này theo ý nghĩa của chúng qua ngũ uẩn
diệt. Thật ra ba phạm trù này do các bộ phái sau này căn cứ vào những lời dạy rải
rác khắp trong kinh điển theo những lời dạy của Phật cùng các Thánh đệ tử của
Ngài sau này mà lập ra, nhưng tất cả đều rất chính xác theo những lời dạy của
Ngài ở rải rác trong ba tạng giáo qua ba phạm trù khế cơ khế lý trên. Theo Căn
bổn Thuyết nhứt thiết hữu bộ Tỳ-nại-da 9, đức Thế tôn bảo với Hiền Thủ:
Tịch tịnh tức Niết-bàn
Thị danh tam pháp ấn.
Đó là ba pháp ấn.
Các hành đều vô thường
Các pháp ắt vô ngã
Vắng lặng tức Niết-bàn
Đó là ba pháp ấn.
Đó là ba pháp ấn mà đức Đạo sư đã dạy Ngài Hiền Thủ
trong Luật Căn bổn Thuyết nhứt thiết hữu bộ. Theo Kinh Duy Ma Cật sớ 6 thì: “Như
luận Đại Trí thuyết thì Kinh Thinh văn có ba pháp ấn, vô thường ấn, vô ngã ấn, Tịch
diệt Niết-bàn ấn. Theo kinh Tiểu thừa thì có ấn này, tức là chỉ cho kinh liễu
nghĩa của Tiểu thừa. Hành giả nào vâng theo những lời dạy trong những kinh này
thì sẽ đắc đạo. Nếu kinh nào không có ba pháp ấn này thì không phải là
kinh liễu nghĩa.”
Ở đây Kinh Duy Ma Cật ngòai những gì cần để hình thành
nghĩa lý của ba phạm trù này như các Kinh điển Thinh văn, mà còn xác nhận một
cách chắc chắn rằng trong kinh liễu nghĩa Tiểu thừa lúc nào cũng hiện diện một
trong ba pháp ấn này, hành giả nào vâng theo những lởi dạy trong kinh Liểu nghĩa
này mà tực hành tu tập thì sẽ đưa đến chỗ đắc đạo va, nếu kinh nào mà không có
sự hiện hữu của ba pháp ấn này thì kinh điển đó không phải là kinh Liễu nghĩa.
Và cũng theo A-tỳ-đạt-ma pháp Uẩn Túc luận 12 thì: “Đối
với ba pháp ấn mà hành giả còn sinh khởi do dự cho rằng tất cả các pháp vô thường
mà cho rằng chẳng phải tất cả các pháp là vô thường; tất cả các pháp là vô ngã
mà cho rằng chẳng phải tất cả các pháp vô ngã; là Niết-bàn tịch tĩnh mà cho rằng
chẳng phải Niết-bàn tịch tĩnh, thì những quan niệm này là si mê.”
Ba pháp ấn là ba phạm trù dùng để ấn chứng, công nhận
những kinh điển nào phù hợp với chân lý, phù hợp với những lời dạy của đức Đạo
sư, phù hợp với sự thật thì kinh điển những lời dạy ấy đích thật là của trí tuệ
còn nếu đối với những kinh điển như vậy mà hành giả nào khởi niệm nghi ngờ
không có lòng tin chắc thật vào ba phạm trù nghĩa lý này thì đò nhữnng con người
si mê ngu muội cần được giáo dục và hướng dẫn để đi theo con đường chánh.
Cũng theo Cu Xá luận ký 1, Đ. 41, trang, 0001b xác nhận
một cách dứt khóat về ba pháp ấn này thì: “Kinh giáo tuy là nhiều, tóm lược lại
thì chia ra làm ba loai gọi là pháp ấn: Một, chư hành vô thường. Hai, chư pháp
vô ngã. Ba, Niết-bàn tịch tĩnh. Vì ấn chứng các pháp nên gọi là pháp ấn. Nếu
thuân theo ấn này thì gọi là kinh Phật, nếu nghịch lại ấn này thì chẳng phải là
những lời Phật dạy.”
Qua kinh luận trình bày ở trên dù là Tiểu thừa hay Đại
thừa ba phạm trù này dùng để kiểm chứng và chứng minh rằng những kinh luật luận
đó do đức Đạo sư thuyết còn nếu không thuộc và một trong ba phạm trù này thì không
phải là những lời dạy của đức Đạo sư mà là những lời thuyết của Ma (chỉ cho ngoại
đạo).
1/ Các hành vô thường, (Skrt: anityāḥ sarva-saṃskārāḥ), tức là chỉ cho mọi hiện tượng có được trên thế gian khiến cho mắt chúng ta nhận thấy qua hình ảnh mà thuật ngữ Phật giáo gọi là pháp hữu vi; chỉ cho muôn vật chúng luôn bị sự chi phối của luật vô thường biến khác, từ hình thái này sang hình thái khác, hay biến dịch từ chỗ này sang chỗ khác luôn xảy ra không bao giờ dừng nghỉ.
Mọi hiện tượng sinh diệt biến đổi này của thế gian chúng liên hệ với
các pháp vô ngã, Niết-bàn tịch tĩnh là một trong ba pháp ấn đại cương cơ bản của
pháp Phật, nên được gọi là chư hành vô thường ấn, hay nhất thiết hành vô thường
ấn, hoặc còn gọi là nhất thiết hữu vi pháp vô thường ấn. Theo bài kệ vô thường
của Kinh Niết-bàn quyển hạ đức Phật đã dạy:
Chư hành vô thường
Thị sinh diệt
pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt, diệt rồi
Tịch diệt là vui.
Qua bài kệ này đức Đạo sư nói lên được tính bất tòan của
mọi sự vật nói chung của mọi hiện tượng cùng muôn vật hiện hữu tại thế gian này
nói chung và, chỉ cho năm thủ uẩn nói riêng, chúng bị luật vô thường chi phối,
nên chúng kinh qua hai trạng thái sinh-diệt biến đổi, tạo ra đau khổ, nếu hành giả
chúng ta muốn đạt đến mọi sự an vui Niết-bàn giải thóat thì, chúng ta phải vượt
qua khỏi sinh-diệt (sống-chết), có nghĩa là chúng ta giải thóat khỏi khổ đau
phát sinh từ các hành thì, sự giải thóat (tịch diệt) đó là an vui.
Các hành ở đây được đức Đạo sư định nghĩa như Kinh Khởi
thế nhân bổn 9 (Đ. 1, trang. 412c) dạy: “Các Tỳ-kheo, các hành là vô thường,
phá hoại, ly tán, lưu chuyển, biến diệt, không trường tồn, chỉ trong chốc lát như
vậy, đáng chán, đáng lo, nên tìm cách giải thóat.” Các hành ở đây chỉ cho tất cả
các pháp hữu vi hiện khởi có hình tướng mà mắt chúng ta có thể thấy và phân biệt
chúng với nhau, có thể đụng chạm vào nhau.
Nói chung là chỉ cho mọi hiện tượng
cùng vạn vật đang hiện hữu giữa thế gian này; nhưng những hiện tượng cùng muôn
vật chúng bị lệ thuộc vào vô thường cho nên chúng luôn luôn ở trong trạng thái sinh
khởi và biến diệt không dừng nghỉ.
Từ trạng thái này biến sang trạng thái khác: Từ đứa bé mới lọt lòng cho đến khi trăm tuổi, tuy rằng phải trải qua một thời gian là trăm năn hay ít hơn, nhưng trong thời gian này chúng luôn thay đổi trong biến dịch trong từng giây từng phút, từng sát-na một nên con người mới có hiện tượng lớn lên và già đi và cuối cùng là biến dịch.
Hiện tượng thay đổi này
có được là nhờ sự xúc tác của vô thường nên mới có thay đổi, nếu không có vô thường
thì sẽ không có bất cứ một sự thay đổi nào hết. Do đó vô thường luôn luôn hiện
hữu trong cuộc sống của chúng ta và cũng nhờ có vô thường mà chúng ta mới có sự
sáng tạo đổi khác trong tư duy, trong cuộc sống và cuộc sống càng trở nên có ý
nghĩa.
Chỗ khác đức Đạo sư dạy rõ hơn như trong Kinh Niết-bàn
Bản Hữu Kim Vô kệ luận 1, Đ. 26, trang. 0282c định nghĩa về: “Các hành tức là
chỉ cho các hành của sắc tâm, chúng có mặt trong ba đời và, vô thường có năm nghĩa:
Một vô thường diệt mất. Hai vô thường xa nhau. Ba vô thường biến khác, hay hồi
chuyển.
Bốn vô thường hữu phần. Năm vô thường tự tánh.” Đây chính là hiện tượng
giả hợp của sắc (đất, nước, gió, lửa) có được nhờ các nhân duyên, duyên nhau mà
sinh khởi và biến dịch, còn mặt thật bản chất (tâm) của chúng là không vì sự hiện
hữu của chúng là do duyên, nên bản chất của chúng là không và chúng có mặt khắp
trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai).
Như trong luận Du Già sư địa 18, Đ. 30, trang.
0378c đã nói: “Các hành vô thường là chỉ cho các hành kia vốn không, nhưng vì
duyên sinh khởi nên hiện hữu (sinh), khi đã hiện hữu rồi thì phải biến diệt
(tùy duyên)” Thật ra các hành ở đây như kinh trên đã nói thì chính là năm uẩn gồm
có sắc và tâm (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Các hành này là vô thường biến đổi
không chắc thật, không tồn tại, vĩnh cữu mà chúng luôn luôn biến dịch, có mặt
khắp trong ba đời. Nhưng sự hiện hữu của chúng như luận Du Già đã nói là không.
Vì vậy cho nên hành giả khi tu tập thì phải như luận A-tỳ-đạt-ma tập dị môn túc
16, Đ. 26, trang 0435b thì chúng ta phải siêng năng quán sát chúng trong khi tu
tập để diệt trừ chấp ngả chấp pháp mà hòan thành cứu cánh Niết-bàn tịch tĩnh
trong hiện quán: “Hiện tại chúng ta nên siêng năng quán sát, các hành là vô thường,
là hữu lậu, là khổ. Tất cả pháp là không, là vô ngã. Khi chúng ta nghĩ đến
chúng như vậy rồi thì chúng ta sẽ siêng năng quán sát.”
Qua những kinh luận ở trên cho chúng ta biết được thế
nào là các hành? Thế nào là vô thường? để từ đó hành giả chúng ta biết được phạn
trù vô thường đối với kinh luật luận chúng luôn hiện hữu, nếu kinh luật luận
nào không mang ý nghĩa đạo lý này thì đó không phải là kinh luật luận củ Phật
giáo.
2/ Các pháp vô ngã (skt: nirātmānaḥ sarva-dharmaaḥ), còn
gọi là tất cả các pháp vô ngã ấn, hay gọi tắc là vô ngã ấn, nói chung là chỉ
cho tất cả các pháp hữu vi cùng vô vi đều không có ngã, vì chúng sinh không hiểu
rõ chúng là không ngã nên đối với tất cả các pháp cưỡng lập có chủ thể, có bản
ngã, có cá thể, rồi chấp vào chúng cho là thật hữu, thường trụ nên càng ngày
chúng ta càng nuôi lớn bản ngã vô minh tà kiến này; cho nên đức Đạo sư mới nói
là không có ngã với mục đích là phá chấp ngã của chúng ta.
Nói tóm lại chư pháp
ở đây chỉ cho các pháp hữu vi và vô vi chúng không có bất cứ một thực thể cá biệt
nào hết, mà chúng hiện hữu được là nhờ nhân duyên mà sinh ra, hỗ tương nhau mà
hiện hữu tồn tại, chúng thật không có tự thế hay thể tánh nào ngoài một sự hiện
hữu giả hợp khi duyên đủ.
Cho dù pháp hữu vi có tác dụng, nhưng chúng không tồn
tại mãi mãi; riêng pháp vô vi tuy là thường hằng vĩnh viễn, song chúng lại
không có tác dụng. Do đó trên mặt tướng thì sự hiện hữu của chúng là pháp giả hợp,
nhưng về mặt tánh chúng là không tánh, rốt cùng tất cả đều là pháp vô ngã.
Chư pháp vô ngã là một trong ba pháp ấn, hay còn gọi là chư pháp vô ngã ấn. Mục đích trọng yếu của giáo nghĩa này là nhắm phán đóan những kinh điển đó có đúng với giáo nghĩa của đức Phật hay không? Và cuối cùng dùng nó để ấn chứng. Như Kinh Trường A-hàm quyển 1, Đ. 1, trang. 0009b đức Phật dạy:
“Nhược học quyết định pháp
Tri chư pháp vô
ngã
Thử vi pháp trung thượng
Trí tuệ chuyển pháp luân…”
(Nếu muốn học pháp quyết định
Phải biết các pháp vô ngã
Ở đây là pháp trung, thượng
Trí tuệ quay bánh xe pháp….)
Hành giả khi học Phật là phải học pháp quyết định là
phải biết một cách chân thật và chắc chắn rằng tất cả các pháp là vô ngã. Và
cũng trong Kinh Tạp A-hàm 11, Đ. 2, trang. 0072c đức Đạo sư dạy: “Tỳ-kheo, đối tất
cả hành không, tậm không phải quán sát chúng một cách hoan hỷ. Đối với hành
pháp không (mà cho là) pháp thường còn, vĩnh viễn, tồn tại, không biến dịch
thì, chúng không có ngã, và sở hữu của ngã.
Như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (kết
hợp với lục trần) các pháp nhân duyên sinh ra … ý thức. Ba điều kiện này hòa hợp
nhau sinh xúc; xúc câu sinh ra thọ, tưởng, tư. Các pháp vô ngã này, là vô thường,
cho đến không có ngã vả sở hữu của ngả.”
Ở đây hành giả chúng ta luôn
luôn phải hiện quán về tâm và hành Không này sự hiện hữu của chúng là một
giả hợp do nhân duyên mà có được, nên tướng chúng là giả hợp, tánh chúng là
không. Nói chung đối với tâm và vật chúng đều là vô ngã, không trường tồn, luôn
luôn biến đổi khộng thật có.
Theo luận Đại Trí Độ 20, Đ. 25, trang. 0206b thì
nên: “quán các pháp vô ngã, ngã sở không, các pháp từ nhân duyên hòa hợp phát
sinh, không có tác già, không có thọ giả cho nên gọi là Không môn.” Không môn
này chính là một khoa, một phạm trù dùng để phán quyết bộ mặt thật của các pháp
hiện hữu được là nhờ vào nhân duyên hòa hợp giữa các pháp mà sinh ra và diệt đi
tùy thuộc vào duyên đủ điều kiện này; do đó không có người tạo ra nó, và cũng
không có người nào đứng ra nhận lãnh (chịu tràch nhiệm) về sự hiện hữu do nhân
duyên đó, cho tạm gọi chúng là cửa không.
Cũng cùng với phương pháp hiện quán này, Kinh Nhân
Vương Hộ Quốc Bát-nhã sớ 2, Đ. 33, trang. 0259c dạy: “Quán các pháp vô
ngã, sở hữu của ngã, các pháp này từ nhân duyên hòa hợp mà hiện hữu, chúng
không phải là người tạo tác, cũng không phải là người nhận lãnh.”
Còn theo Nhiếp Đại Thừa luận thích thì, không những tất
cả các pháp chỉ là vô ngã không thôi mà, nếu hành giả nào thông đạt các pháp là
vô ngã thì trí bình đẳng phát sinh và, thấy rõ các pháp đều không có tự tánh.
Vì trí bình đẳng phát sinh nên giửa các hữu sinh tử và Niết-bàn được coi như là
một, không phải hai không phải khác về mặt trí (tánh). Cho nên giữa sinh-tử và
Niết-bàn không có bất cứ một sai biệt nào. Nhiếp Đại Thừa luận thích 9, Đ.31,
trang. 0370b thì: “Khi Bồ-tát thông đạt các pháp vô ngã thì trí bình đẳng phát sinh,
thấy rõ các pháp kia đều không có tự tánh, các hữu sinh tử là Niết-bàn.”
Qua những bản kinh luận mà chúng tôi vửa trích dẫn ở trên cho hành giả chúng ta nhận thức rằng phạm trù nghĩa lý của pháp ấn thứ hai là các pháp vô ngã. Sự hiện hữu của tất cả các pháp đều từ nhận duyên hòa hợp nương tựa vào nhau mà hiện hữu.
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng
đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không
cũng do duyên mang lại. Ở đây các pháp là chỉ chung cho cả tâm lẫn sắc như truờng
hợp của năm thủ uẩn là vô ngả vậy.
3/ Niết bàn tịch tĩnh, (Skt: śantaṃ nirvāṇam) còn gọi
là Niết-bàn tịch diệt ấn, gọi tắc là Niết-bàn ấn là phạm trù thứ ba trong ba
pháp ấn. Phạm trù thứ ba này là bàn về nỗi khổ của chúng sanh đã và đang gánh
chịu ở thế gian này, phát xuất từ lòng vô minh mê mờ không biết cái khổ của
sinh tử luân hồi, nên khởi hoặc tạo ra mọi thứ nghiệp lực, từ đây phải lưu chuyển
trong ba cõi sáu đường, cho nên đức Đạo sự vì chúng sanh mê mờ không biết cách
nào để thóat khỏi sự khổ đau của vô minh mà Ngài nói về pháp Niết bàn vắng lặng.
Với mục đích là khiến cho chúng sanh thóat ly khỏi khổ đau của sinh tử mà chứng
đắc Niết-bàn tịch tĩnh. Theo Căn Bản Nhứt Thiết Hữu Bộ 4, Đ. 24, trang. 0119a của
luật tạng đức Đạo sư dạy:
“Ta biết dục là tội lỗi
Muốn thấy Niết bàn tịch tĩnh
Nay Ta phải nên xả bỏ
Để đạt đến vui thanh tịnh .”
Phạm trù Niết-bàn tịch tĩnh là phạm trù sau khi hành
giả lìa bỏ khổ đau, giải thóat tất cả mọi trói buộc của phiền não mà dục là một
hình thức phiền não căn bản của khổ đau sinh tử luân hồi phát sinh trực tiếp
qua sự tạo tác của thân, khẩu, ý. Ở đây muốn đạt được Niết-bàn tịch tĩnh là chỉ
cần xả bỏ tất cả dục ái (tanhā) căn bản để đạt được Niết-bàn hiện hữu ngay
trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
Cũng theo luận Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm 29. Đ. 11, trang.
0741b thì, “Nếu lìa dục, ái hết sẽ đạt Niết-bàn tịch tĩnh thắng diệu”Vì dục ái
là pháp căn bản của nguồn gốc đưa chúng sanh đến các hữu sinh tử luân hồi trong
ba cõi sáu đường, nên nếu muốn giải thóat sinh tử trong ba cõi sáu đường và đạt
được mọi an vui Niết-bàn tịch tĩnh giải thóat trong cuộc sống thì chúng
ta phải lìa bỏ dục thì ái mới hết. Vì ái dục là nguồn gốc phát sinh mọi khổ đau
phiền não trói buộc chúng sanh trong luân hồi. Do đó chúng ta nên giải thóat ái
dục thì niết bàn an vui sẽ hiện hữu.
Theo Kinh Đại Bát Niết-bàn nghĩa ký 10, Đ. 37, trang.
0850b thì đức Đạo sư bảo: “Lìa giác quán gọi là Niết-bàn có nghĩa là diệt trừ
trí chướng ngại; trừ bỏ trí vọng thì được gọi là xa lìa giác quán. Nhờ xa
lìa giác quán được nghĩa Niết-bàn tịch tĩnh, cho nên gọi là Niết-bàn.” Đó
là cách định nghĩa Niết-bàn tịch tĩnh theo nghĩa phủ định.
Thông thường đức Đạo
sư khi đề cập đến Niết-bàn Ngài thường dùng những từ phủ định, để tránh những
ngộ nhận nếu có về Niết-bàn, mà một phạm trù như vậy chỉ có những ai thực chứng
chân lý mới nhận ra một cách chính xác ngoài ra chúng ta khộng thể nhận ra được
bản thể cùng các hiện tượng một cách như thật được trong đó có Niết-bàn.
Chúng
ta có thể ngộ nhận về một cõi Niết-bàn có được nào đó từ những xác định của
ngôn ngữ, sẽ khiến cho chúng ta nhận lầm về chúng; vì ngôn ngữ chúng ta chỉ có
giá trị tương đối về mặt diễn tả chân lý một cách tương đối trong khi niết-bàn
là một phạm trù thuộc chân lý tuyệt đối và, bị hạn chế trong những nhận thức của
thế trí như kinh trên đức Đạo sư đã dạy.
Muốn giải thóat những trói buộc hạn chế mê lầm đó thì chúng ta phải trừ bỏ hay tiêu diệt chúng mới đạt được chúng qua ngôn ngữ phủ định tương đối nhằm thể nhập vào tự tánh không của thế sống. cho nên Niết-bàn được đức Đạo sư nhắc đến qua nhiều kinh luật luân thường là dùng những danh từ phủ định như: Tanhakkhaya (diệt ái) có nghĩa lã dục vọng bị tiêu diệt; Asamkhata (vô vi), có nghĩa là không bị liên kết, không bị giới hạn; Virāga (vô tham), có nghĩa là không tham lam; Nirrodha có nghĩa là sự chấm dứt (dục ái); Nibbāna, là tịch diệt, có nghĩa là sự thổi tắt, hay sự tắt hẳn.
Với những
từ này đức Đạo sư dùng với mục đích nhằm để phủ định những khẳng định bị giới hạn
lệ thuộc vào trong tró`I buộc, chúng đi nghịcu lại với con đường giải thóat của
Ngài. Phần này hành giả nếu muốn tìm hiểu rộng hơn xin xe Tập san Pháp luân số
…
Tóm lại, mục đích của Ba pháp ấn này theo như
trong Câu Xa luận ký 1, Đ. 41, trang. 0001b đã giải thích thì: “Các hành vô thường
chỉ dàng để giả thích rõ các pháp hữu vi, Niết-bàn tịch tĩnh dùng để giải thích
rõ các pháp vô vi, còn Các pháp vô ngã là dùng chung để īải thích rõ cả pháp hữu
vi và vô vi.”
Như vậy ba phạm trù này dùng để ấn chứng và khẳng định rằng
nếu trong những lời dạy của kinh điển mà không liên hệ đến ba phạm trù này thì
những loại kinh điển đó không phải do đức Đạo sư nói ra mà có thể là do ma nói.
Vậy ba pháp ấn rất quan trọng đối với việc nhận chân và đánh giá về những gì
Ngài đã dạy ra nếu những kinh điển nào không phù hợp, không có sự hiện hữu của
ba phạm trù: Vô thường, vô ngã, Niết-bàn thì, không phải là kinh điển do Phật
nói ra..
Hơn nữa qua ba phạm trù này cũng được đức Đạo sư cho chúng ta nhìn ra
được phạm trù nghĩa lý nào dùng cho các pháp hữu vi có sinh có diệt theo sự hiện
hữu và biến dịch của chúng qua nhân duyên mà mắt hữu tình chúng sanh chúng ta
nhận thấy, rờ mó được và, những pháp này mang hình thức chướng ngại, còn những
pháp vô vi không hình tướng, không thể hiện hữu và có chất ngại mà mắt chúng ta
không thể nhận thấy, nhận biết trong xúc chạm của các pháp thuộc về sự mà chúng
thuộc về tư tưởng, lý, khiến hành giả chúng ta phải kinh qua chứng nghiệm bằng
vào những sở đắc có được mà thôi.
Còn các pháp vô ngã chỉ chung cho tâm và vật
của một chúng sinh hữu tình nói riêng và muôn vật nói chung. Tâm thuộc hình thức
vô vi không thấy, không nắm bắt được của thọ, tưởng, hành, thức và của vật tức
chỉ cho sắc pháp mà đại diện là đất, nước, gió, lửa, những vật chất này mắt
chúng ta có thể thấy và có thể tiếp xúc trong xúc chạm nắm giữ đươc.
Ba pháp ấn này không ngoài ấn định chứng nhận để cho hành giải phận biệt được cái nào là chân lý cái nào thuộc ma vương nói ra cho các hành giả chúng ta phân biệt lựa chọn trên buớc đường tìm về giải thóat mà không sợ nhầm lẫn.
Đây là ba pháp ấn mà cả
Tiểu thừa lẫn Đại thừa đều chấp nhận, ngoài ba pháp ấn này ra nếu cộng thêm Nhất
thiết hành khổ thì gọi là bốn pháp ấn; từ bốn pháp ấn thêm vào Nhất thiết pháp
không thì gọi là năm pháp ấn. Đó là những phạm trù thường thấy trong kinh điển
của đức Phật còn để lại, cho dù là bốn hay là năm, chúng vẫn không ra ngoài ba
pháp ấn này.
Nguồn tin: Thích Đức Thắng
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự