Theo truyền thuyết thì vị Bồ-tát này vì muốn giáo hóa các chúng sanh nên từ lúc mới phát tâm đã không ăn thịt chúng sanh, do nhân duyên ấy mà có tên là Từ Thị. Còn theo Đại Nhật Kinh Sớ q.1 thì Từ Thị là lấy chữ Từ trong Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả)của Phật làm đầu, lòng Từ đó sanh ra từ chủng tánh Như Lai, có năng lực làm cho tất cả thế gian không đoạn dứt Phật chủng, cho nên gọi là Từ Thị (Thị là tộc chủng, là họ). Theo Kinh Di-lặc
Thượng Sanh và Kinh Di-lặc Hạ Sanh, vị Bồ-tát này xuất thân từ một gia đình
Bà-la-môn, về sau làm đệ tử Phật, nhập diệt trước Phật, dùng thân Bồ-tát trụ ở
cõi trời Đâu Suất thuyết pháp cho các vị trời ở cõi này. Theo truyền thuyết thì
vị Bồ-tát này vì muốn giáo hóa các chúng sanh nên từ lúc mới phát tâm đã không
ăn thịt chúng sanh, do nhân duyên ấy mà có tên là Từ Thị. Còn theo Đại Nhật
Kinh Sớ q.1 thì Từ Thị là lấy chữ Từ trong Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả)của Phật làm đầu, lòng Từ đó sanh ra từ chủng tánh Như Lai, có năng lực làm cho
tất cả thế gian không đoạn dứt Phật chủng, cho nên gọi là Từ Thị (Thị là tộc
chủng, là họ). Nói dễ hiểu, Từ Thị (Maitreya) nghĩa là chủng tánh từ
bi.
Đức Thế Tôn từng
thọ ký : Hết thời kỳ con người sống lâu 8.000 tuổi, Ngài hạ sanh xuống cõi Ta-bà
này thành Phật dưới cội Long Hoa, chia làm ba hội thuyết pháp. Do ý nghĩa Ngài
thay Phật thuyết giáo nên gọi là Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ (một đời nữa sẽ bổ
xứ thuyết pháp), khi thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai. Do vậy chúng ta
thường xưng lễ :
Về nhân vật lịch
sử, theo phẩm Tùy Hỷ trong Kinh Pháp Hoa q.6, Kinh Bình Đẳng Giác q.4, Di-lặc
chính là A-dật-đa, một vị đệ tử của Phật Thích-ca. Nhưng theo Kinh Thuyết Bản
trong Trung A-hàm 13, Kinh Xuất Diệu 6 và Luận Đại Tỳ-bà-sa 178, Di-lặc và
A-dật-đa là hai nhân vật khác nhau. Đây là một điểm mà chúng ta cần khảo cứu.
A-dật-đa (Phạn : Ajita) Hán dịch là Vô Thắng, Vô Năng Thắng hoặc Vô Tam
Độc. Ngài là một vị đệ tử Phật, từng lập chí đương lai sẽ thành Chuyển luân
thánh vương tên là Nhưỡng-khư (Samkha, Hán dịch : Loa). Trong bài kệ tựa
phẩm Bỉ Ngạn Đạo (Pàràyana) của Kinh Tập (Sutta - nipàta) thuộc
Đại Tạng Kinh Pàli đều nêu cả hai tên A-thị-đa (Ajita) và Đế-tu Di-lặc (Tissametteyya),
tức hoàn toàn cho đó là hai người khác nhau. Trong phẩm ấy còn nêu cả hai kinh
: Kinh A-thị-đa Vấn (Ajitamànapucchà) và Kinh Đế-tu Di-lặc Vấn (Tissametteyyamànapucchà).
Kinh Thuyết Bản trong Trung A-hàm 13 và Kinh Hiền Ngu 12 thì cho rằng Tôn giả
A-di-đá (Ajita) ở đời vị lai lâu xa, khi con người sống 80.000 tuổi,
nguyện thành Chuyển luân thánh vương tên Loa. Tôn giả Di-lặc cũng nguyện ở đời
vị lai, khi con người sống đến 80.000 tuổi sẽ thành Phật, hiệu là Di-lặc Như
Lai. Luận Đại Tỳ-bà-sa 178 cũng ghi : "Tỳ-kheo A-thị-đa đối với các hữu,
khởi tâm ưa thích, khởi tâm thắng giải, khởi tâm hâm mộ, khởi tâm hy vọng, khởi
tâm tìm cầu nên Phật quở trách. Bồ-tát Từ Thị đối với các hữu, không khởi tâm
ưa thích cho đến không tìm cầu, đối với việc làm lợi ích các loài hữu tình khởi
tâm ưa thích cho đến tìm cầu, nên Phật khen ngợi".
Theo đó thì Di-lặc
và A-dật-đa là hai nhân vật khác nhau, đều là đệ tử Phật, được Phật giáo hóa.
Đây chỉ là vấn đề lịch sử, sự lầm lẫn không có gì nghiêm trọng lắm. Điều khiến
chúng ta dễ ngộ nhận nhất là Bồ-tát Di-lặc và Luận sư Di-lặc, vị Thủy tổ của
Du-già Đại thừa, ra đời khoảng sau Đức Phật nhập diệt 900 năm. Đây có phải là
nhân vật lịch sử không ? Và chính vị này hay Bồ-tát Di-lặc ở cung trời Đâu Suất
giảng nói lý Du-già Duy Thức ?
Trong Đại Tạng
Kinh bản Hán dịch ghi Bồ-tát Di-lặc là tác giả của những bộ luận Du-già Sư-địa,
Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Tụng, Biện Trung Biên Luận Tụng, Kim Cang
Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Luận. Trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng ngoài các luận nói
trên còn có ghi thêm Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Pháp Tánh Phân Biệt Luận và
Đại Thừa Cứu Cánh Yếu Nghĩa Luận. Tương truyền Di-lặc là thầy của ngài Vô
Trước, sáng tạo ra lý Du-già Duy Thức và sau truyền trao cho Vô Trước. Theo
Bà-tẩu-bàn-đậu Pháp Sư Truyện, Vô Trước từng lên cung trời Đâu Suất thỉnh vấn
Bồ-tát Di-lặc về lý Không quán của Đại thừa, do đó mà xem Di-lặc cũng là thầy
của Vô Trước, còn người đời sau thì cho rằng Ngài chính là Đức Phật Di-lặc
trong tương lai. Đối với các bộ luận đã nêu trên, thực tế có thể là do Vô Trước
tóm thâu các học thuyết của tiên hiền mà tạm cho là của Di-lặc sáng tác.
Học
giả Phật giáo nước Nga là E. Obermiller cho rằng truyền thuyết như ngài Long
Thọ nhờ Bồ-tát Văn-thù khải phát mà trước tác các bộ luận, cũng vậy, ngài Vô
Trước thì nhờ thần lực của Bồ-tát Di-lặc ở cung trời Đâu Suất mà tạo luận. Học
giả Nhật Bản là Sơn Khẩu Ích dựa vào thuyết này mà cho rằng người chú thích,
luận thuyết các bộ luận đề tên ngài Di-lặc nói trên đều là do một mình ngài Vô
Trước làm cả, và ngài Di-lặc chỉ là người khải phát linh cảm, và là một vị Phật
Đương lai Nhất sanh bổ sứ. Học giả
Sự khảo chứng của
các học giả kể cũng khá nhiều, nhưng vẫn không giúp chúng ta có cái nhìn chính
xác đủ sức làm tin. Thực ra, Di-lặc có phải là nhân vật lịch sử giảng nói Duy
Thức cho Vô Trước hay không, hay do Vô Trước lên cõi trời Đâu Suất thỉnh vấn
không quan trọng với chúng ta. Hoặc lịch sử hoặc truyền thuyết, Bồ-tát Di-lặc
vẫn là người giảng nói Duy Thức. Đó là điều chúng ta cần biết.
Trong Mật giáo,
Bồ-tát Di-lặc là 1 trong 9 tôn vị ở Trung đài của Mạn-đồ-la Thai Tạng giới, phía
Đông bắc của Đại Nhật Như Lai; còn trong Mạn-đồ-la Kim Cang giới, Ngài là 1
trong 16 tôn vị của Hiền kiếp.
Nói chung, như
trên chúng ta đã phát họa được danh hiệu, trụ xứ, truyền thuyết và lịch sử của
Bồ-tát Di-lặc. Nội dung chính của bài viết này là tìm hiểu giá trị đạo lý của tín
ngưỡng Di-lặc qua kinh điển Phật giáo.
Kinh luận y cứ
Trong toàn bộ tín ngưỡng Phật giáo, không có tín ngưỡng nào mà mơ
hồ, thiếu gốc gác cả. Sở dĩ một truyền thống được bảo lưu và phổ cập là nhờ giá
trị nguyên thủy của nó, tín ngưỡng Di-lặc cũng xuất phát từ rất nhiều kinh luận
thành văn hẳn hoi chứ không phải chỉ là niềm tin khống của dân gian.
Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, kinh điển chính thức nói về
Di-lặc có đến 6 bộ. Sáu bộ kinh này thuật về việc sanh lên cõi trời Đâu Suất,
từ cõi trời Đâu Suất giáng sanh xuống cõi Diêm-phù-đề, thành Phật, quốc độ,
thời tiết nhân duyên, chủng tộc, xuất gia, hành đạo và chuyển pháp luân của
Bồ-tát Di-lặc. Chúng tôi xin liệt kê 6 bộ kinh này để độc giả tiện lãm :
1. Kinh Quán Di-lặc
Thượng Sanh, do Thư Cừ Kinh Thanh dịch.
2. Kinh Di-lặc Hạ
Sanh, Cưu-ma-la-thập dịch.
3. Kinh Di-lặc Lai
Thời, không rõ dịch giả.
4. Kinh Quán Di-lặc
Bồ-tát Hạ Sanh, Trúc Pháp Hộ dịch.
5. Kinh Di-lặc Hạ Sanh
Thành Phật, Nghĩa Tịnh dịch.
6. Kinh Di-lặc Đại
Thành Phật, Cưu-ma-la-thập dịch.
Trong 6 kinh trên, ba bộ quan trọng nhất là 1, 4 và 6, được gọi
riêng là Di-lặc Tam Bộ Kinh. Các bộ kinh trên đều được xếp vào Đại Chánh Tạng tập
14. Nội dung các kinh phần lớn giống nhau, có vài kinh là đồng bản dị dịch.
Ngoài ra cũng còn một số kinh khác nói về bản nguyện của Phật Di-lặc, cộng lại
thành hơn 10 loại. Chú sớ giải thích các bộ kinh này thì rất nhiều, nổi tiếng
là các bộ Di-lặc Kinh Du Ý của ngài Cát Tạng, Di-lặc Thượng Sanh Kinh Tông Yếu
của ngài Nguyên Hiểu, Quán Di-lặc Bồ-tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên Kinh Tán
của ngài Khuy Cơ và Tam Di-lặc Kinh Sớ của ngài Cảnh Hưng. Tựu trung, 6 bộ kinh
trên được chia làm hai loại, đó là Thượng sanh và Hạ sanh. Ở đây chúng ta chỉ
tìm hiểu hai hệ thống chính liên quan đến tín ngưỡng mà thôi.
1. Tín ngưỡng Thượng sanh : Tín ngưỡng Thượng sanh cho rằng hiện nay Bồ-tát Di-lặc đang
nói pháp trên cung trời Đâu Suất. Các kinh điển Thượng sanh diễn tả tỷ mỷ về
cõi trời này. Đây là tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục. Tuy là cõi Dục,
nhưng cõi trời này có những cái đặc thù mà các tầng trời khác không có. Thiên
cung Đâu Suất có hai phần là Nội viện và Ngoại viện. Thiên chúng ở Ngoại viện
vẫn hưởng thú vui ngũ dục nên dễ bị đọa lạc, chỉ có tại Nội viện, nơi Bồ-tát
Di-lặc đang thuyết pháp thì không khác cảnh giới Cực Lạc của Phật A-di-đà. Nếu
người phát nguyện vãng sanh về nội viện thiên cung Đâu Suất, nhất tâm giữ giới
tu thiện thì sau khi mạng chung sẽ được vãng sanh.
Tín ngưỡng Thượng sanh có từ rất sớm ở Ấn Độ. Ở Trung Quốc đầu
tiên có ngài Đạo An (314 - 385), Đạo Kiểu, Tăng Nghiệp, Huệ Nghiêm, Đạo Uông,
Đạo Pháp, Pháp Thịnh, Đàm Phó, Đàm Võ … Đó là những danh tăng có ảnh hưởng rất
lớn giới Phật giáo đương thời. Đến đời Đường, ngài Huyền Trang, Khuy Cơ cũng
hoằng dương tín ngưỡng Thượng sanh Đâu Suất và trở thành truyền thống của tông
Pháp Tướng.
Trong các bộ sám văn được trứ tác thời kỳ này như Từ Bi Tam-muội
Thủy Sám Pháp, Lương Hoàng Sám, chúng ta thấy nói nhiều đến tín ngưỡng Thượng sanh
này. Từ đời Đường về sau, khi Kinh Di-đà được dịch sang Trung Quốc thì có rất
nhiều người phát nguyện sanh về Tây phương Tịnh độ, do đó tín ngưỡng Thượng
sanh Đâu Suất không còn thịnh hành như xưa.
2. Tín ngưỡng Hạ sanh : So với tín ngưỡng Thượng sanh, tín ngưỡng Hạ sanh lại rất phổ
biến. Tín ngưỡng này cho rằng tương lai Bồ-tát Di-lặc sẽ giáng sanh xuống cõi Diêm-phù-đề,
thành Phật dưới cội Long Hoa và thuyết pháp ba hội để cứu độ chúng sanh, vì thế
có thuyết "Long Hoa tam hội". Nếu chúng sanh tu tạo nhân duyên, phước
báo, trụ sanh ở Diêm-phù-đề khi Phật Di-lặc giáng sanh thì sẽ được Phật giáo
hóa. Tín ngưỡng này trông có vẻ dễ hơn Thượng sanh nên rất hịnh hành. Đời Lưu
Tống, vua Minh Đế (tại vị 465 - 471) soạn Long Hoa Thệ Nguyện Văn; Châu Ngung
soạn Kinh Sư Chư Ấp Tạo Di-lặc Tam Hội Ký; Văn Tuyên Vương Tề Cánh Lăng soạn
Long Hoa Hội Ký, ngài Nam Nhạc Huệ Tư soạn Lập Thệ Nguyện Văn, tất cả đều nói
về thuyết Di-lặc hạ sanh.
Do tín ngưỡng Hạ sanh được các vua chúa tôn sùng, nên việc khắc
tạo tượng Phật Di-lặc ở Trung Quốc phát triển cực thịnh. Tượng Di-lặc được khắc
tạc vào múi Thạch Thành cao đến hơn 300m vào đời Nam Tề, Hiến Văn Đế đời Bắc
Ngụy cũng tạo rất nhiều tượng Di-lặc ở Vân Cương Đại Đồng, Long Môn … Việc tạo
tượng Di-lặc ở Trung Quốc cũng ảnh hưởng nhiều đến các nước Triều Tiên, Nhật
Bản.
Nói chung, tín ngưỡng Hạ sanh quá thịnh hành, đưa đến một vài tệ
đoan đáng tiếc trong lịch sử phát triển tín ngưỡng, như ngụy tạo kinh điển, tự xưng
Bồ-tát Di-lặc giáng sanh để phục vụ mưu đồ chính trị, hay cho rằng sắp tận thế,
sắp đến hội Long Hoa, chúng tôi sẽ chứng minh ở một phần khác.
Muốn tìm hiểu cặn kẽ và chính xác về các kinh, hàng hậu học chúng
ta không gì hơn là đọc ngay vào các bộ luận sớ, giảng nghĩa, chú thích từng câu
kinh Phật của chư Tổ. Hiện tại các kinh sớ về Di-lặc ở Việt Nam chưa thấy có
một bản dịch nào lưu hành. Chúng tôi mạo muội đọc các bản chú sớ trong Đại Tạng
Kinh rồi tóm lược vài ý chính mà chúng ta cần biết. Như trên chúng tôi đã giới
thiệu 4 bộ sớ quan trọng, ở đây cũng xin dựa vào các bộ ấy để dẫn luận. Ba bộ
sớ của ngài Cát Tạng, ngài Khuy Cơ và ngài Tông Hiểu có nhiều điểm tương đồng.
Bộ của ngài Cát tạng (Di-lặc Kinh Du Ý) và bộ của ngài Tông Hiểu (Di-lặc
Thượng Sanh Kinh Tông Yếu) chia ra 10 môn để luận giải; bộ của ngài Khuy Cơ(Quán Di-lặc Thượng Sanh Đâu Suất Thiên Kinh Tán) có 5 môn. Việc tuần tự
đúc kết từng môn của ba bộ luận này là quá lớn, quá dài đối với phạm vi bài
viết này. Chúng tôi chỉ dẫn dụng vài vấn đề quan trọng, còn các chi tiết khác,
độc giả có thể tìm hiểu bằng cách đọc ngay trong chánh văn Kinh Di-lặc Hạ Sanh
đã được dịch và in ở phần sau một số Kinh Nhật Tụng.
Về danh hiệu, tác phẩm của ngài Cát Tạng nói : Một số kinh ghi
A-dật-đa là tên, Di-lặc là họ; hoặc A-dật-đa là họ, Di-lặc là tên. Như vậy
chúng ta dễ dàng nhận ra vì sao có sự nhầm lẫn giữa hai vị đệ tử Tỳ-kheo của Phật,
bởi lẽ có một vị có cái tên trùng với họ của vị kia, cho nên để dễ phân biệt,
trong kinh đã dùng chữ Từ Thị (họ Từ) để chỉ Bồ-tát ở cõi Đâu Suất.
Về đại ý của kinh, ngài Tông Hiểu (Đại 38, 299 trung) ghi :
"Kinh này tán thán diệu tích của bậc chí nhân, là kinh điển chân thật
khuyến hóa chúng sanh tu tập quán pháp (khuyến vật tu quán chi chân điển
giả)". Về tông thể của kinh, tác phẩm của ngài Cát Tạng (Đại 38,
263 hạ) ghi : "Nhiều thuyết phán giáo rằng : Kinh Thượng Sanh lấy Đại
thừa làm tông thể, Kinh Hạ Sanh lấy Tiểu thừa làm tông thể. Vì thế trong Kinh Thượng
Sanh có nói đầy đủ việc chứng Lục độ, Tứ đẳng Bồ-tát hạnh, cũng có nói đủ Trung
và Giả ( … ). Kinh Hạ Sanh chỉ biện biệt ba phẩm ba tạng Giới Định Huệ, cho nên
lấy Tiểu thừa làm tông. Vì thế ba hội thuyết pháp chỉ chứng đến tứ quả mà thôi.
Kinh này chỉ nói đến Giả, không nói đến Trung (Trung đạo)". Ngài
Cát Tạng thì chủ trương rằng : "Dựa theo giáo pháp Thích-ca, sắc thanh …
là kinh thể, lấy cái Nhị để làm rõ cái Bất nhị (Bất nhị nhi Nhị minh chi),
trong 15 thứ sắc, có 3 thứ sắc làm kinh thể. Nếu phân biệt Tông và Thể khác
nhau thì chánh pháp là Thể, nhân quả là Tông, như trong Đại Kinh Sớ và Đại Phẩm
Sớ đã nói đầy đủ" (Đại 38, 264 thượng).
Ngài Khuy Cơ thì không phân
biệt Đại thừa và Tiểu thừa, mà chỉ dựa trên ba thân Pháp, Báo và Ứng để giải
thích Quyền và Thật của Phật Di-lặc. Và Ngài đã dẫn dụ các kinh luận Đại thừa
như Pháp Hoa, Bát-nhã để cho rằng Kinh Di-lặc Thượng Sanh có đầy đủ Quyền và
Thật. Luận về nhân hạnh, quả đức của Phật Di-lặc thì các chú sớ trưng ra rất
nhiều thuyết khác nhau, thời lượng và danh hiệu tuy khác, song nói chung đều
cho rằng Bồ-tát Di-lặc tối sơ phát Bồ-đề tâm, hành Bồ-tát đạo, trải qua ba
a-tăng-kỳ kiếp tu hành rồi thành Phật. Trong phần này, cả ba tác phẩm đều luận rất
kỹ về số kiếp tu hành. Khái niệm về "Kiếp" (Kalpa) rất phức tạp,
trong đó có Quá khứ Trang nghiêm kiếp, Hiện tại Hiền kiếp và Vị lai Tinh tú
kiếp, mỗi kiếp có 1.000 vị Phật ra đời, Đức Di-lặc đã từng ở trước 3.000 vị
Phật ấy tu hành Bồ-tát đạo. Về thời gian Đức Phật xuất thế, đó là lúc tuổi thọ
con người sống đến tám vạn tuổi, tính theo thời gian kiếp tăng và kiếp giảm (100
năm tăng, hoặc giảm 1 tuổi, hiện nay đang là kiếp giảm) thì từ nay đến khi
Đức Phật Di-lặc ra đời khoảng 57 tỷ 60 triệu năm nữa - một thời gian quá lâu
xa.
Về việc thành đạo, các chú sớ cũng chú trọng phân biệt thành Bản
môn và Tích môn như Kinh Pháp Hoa, tức cũng giống như Phật Thích-ca, hoặc viễn kiếp
tu hành thành Phật, hoặc ngay hiện đời tu hành thành Phật. Cội cây mà bảy vị
Phật ngồi thành đạo đều khác nhau : Phật Tỳ-bà-thi ngồi dưới cây Ba-la, Phật
Thi-khí ngồi dưới cây Phân-đà-lợi, Phật Tỳ-xá-bà ngồi dưới cây Bác-lạc-xoa, Phật
Câu-lưu-tôn ngồi dưới cây Thi-câu-lưu, Phật Câu-na-hàm ngồi dưới cây
Ưu-đàm-ba-la, Phật Ca-diếp ngồi dưới cây Câu-luật-đà, Phật Thích-ca ngồi dưới
cây Bối-đa-la, còn Phật Di-lặc ngồi dưới cây Long Hoa. Ba hội thuyết pháp của
bảy vị Phật, số người được độ ở ba hội cũng khác nhau. Ngoài ra, các bộ chú sớ
còn nói rất kỹ về đất đai, thời tiết, căn tánh, tuổi thọ, phước nghiệp của
chúng sanh khi Đức Phật hạ sanh rất tỷ mỷ, ở đây không thể nói hết.
Để kết thúc phần nội dung y cứ vào kinh luận, chúng tôi xin trích
dịch nguyên văn phần tựa Di-lặc Kinh Du Ý của ngài Cát Tạng và một đoạn cuối bài
đề tựa Kinh Quán Di-lặc Bồ-tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên của ngài Khuy Cơ, như
một cái nhìn tổng quát về tín ngượng Di-lặc.
Bài Tựa của ngài Cát Tạng (Đại 38, 263 thượng) ghi :
"Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, từ lúc sơ phát tâm đã giác ngộ
lý Vô sở đắc của Đại thừa, tu chư vạn hạnh, hoặc Thượng sanh Đâu Suất, vì các
Thiên tử thuyết pháp Bát-nhã Ba-la-mật, hoặc 56 ức 7 ngàn vạn năm hạ sanh cõi
Diêm-phù-đề, thành bậc Chánh giác. Vì thế chư Phật trước sau đều thị hiện Bát
tướng thành đạo, tiếp nối tôn vị, đều là Nhất sanh bổ xứ. Cho nên trước là Phật
Thích-ca, sau đến Phật Di-lặc, công hạnh ngang hàng Thập địa, đức hạnh đạt bậc
Thượng nhẫn trong Tam nhẫn mới có thể hoán đổi Uế độ này thành ra Tịnh độ. Thọ
mạng con người đến 8 vạn 4 ngàn tuổi, ruộng đất thì gieo một gặt mười (Điền
tức nhất chủng thất hoạch), huống hồ những thứ hoa thơm cỏ lạ đầy trời chật
đất, kho báu châu ngọc đầy hầm chật hố. Ba hội thuyết pháp, độ khắp trời người,
tất cả danh tự đều ngộ Vô sanh nhẫn".
Tác phẩm ngài Khuy Cơ (Đại 38, 272 hạ) tán rằng : "Kinh Quán Di-lặc Bồ-tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên, Lục sự gồm tu, Nhị nhân cùng chứa. Tâm tinh cần diệu cảnh, thường hoan hỷ quán tu. Di-lặc chính là Phạn âm, Trung Hoa dịch là Từ Thị. Lòng mẹ buồn đau nỗi tơ vò, tánh con thương xót đến hoài thai, nguyện xưa nay vẫn tinh thành, nhân đó lấy Từ làm hiệu. Đạo viên thành nơi thượng quả, Tích lưu dấu tại nhân đầu, mong giác ngộ vận độ quần sanh nên giả xưng Bồ-tát. Thượng sanh tức vãng sanh Đâu Suất, tri túc tự tại, hào quang thần dụng, thảy do bổ xứ Thiên cung, đoan cư lợi lạc. Nếu chúng sanh khắc lòng quán tưởng, tất sẽ được chiêm ngưỡng phụng hầu. Kinh này là sự nhiếp thâu, xuyên suốt, thường hằng, phép tắc, khuôn mẫu (Kinh giả nhiếp dã quán dã thường dã pháp dã). Thầy trò truyền trao giáo nhiếp, dứt tuyệt phàn lung; lý xuyên suốt nơi văn, lìa hẳn mọi sự tán diệt, làm phép tắc cho trăm loài, làm khuôn khổ cho vạn đại, lợi vật thuyên chơn, đó là kinh này vậy".
Nhận định chung về tín ngưỡng Di-lặc
Bao giờ đến hội Long Hoa ? Đó là câu hỏi đã có từ hàng ngàn năm
trước. Câu hỏi ấy càng trở thành cấp bách ở những năm cuối cùng của thế kỷ 20.
Từ khi còn rất nhỏ tôi đã nghe người ta kháo với nhau rằng năm 2000 tận thế.
Lúc ấy hội Long Hoa xuất hiện, Đức Phật Di-lặc ra đời cứu vớt những người tu
phước hành thiện, còn những kẻ ác thì phải đọa địa ngục. Thế rồi dân gian đã
tưởng tượng ra Long Hoa chính là cây xương rồng, rồi thì nhà nhà đều trồng cây
xương rồng để trừ ma ếm quỷ, và tạo duyên để Di-lặc hạ sanh. Khi bài viết này
đến tay độc giả thì đã bước qua những ngày cuối cùng của thế kỷ 20, và
"Ông bụng bự vui tính" vẫn còn ở tận đâu đâu. Trời chưa sập, đất chưa
tan, nhưng niềm tin của con người vẫn còn bổi hổi.
Từ đời Đường, năm 689, Võ Tắc Thiên đã hạ lệnh cho Pháp Lãng ngụy
tạo Đại Vân Kinh, cho rằng Võ Hậu là Di-lặc hạ sanh. Năm 613, Tống Tử Hiền và Hướng
Hải Minh tự xưng là Di-lặc xuất thế để tập hợp dân chúng làm loạn. Khoảng năm
713 - 755, Vương Hoài Cổ cũng tự xưng là Tân Phật (Phật Di-lặc) rồi cử
binh làm loạn, cuối cùng bị bắt. Khoảng năm 873 - 888, giáo đồ Di-lặc ở Tây
Thục tổ chức hội Di-lặc để mở rộng thanh thế. Khoảng năm 1022 - 1063 đời Bắc
Tống, Vương Túc thống lãnh giáo đồ Di-lặc phản loạn ở Bối Châu. Đời Nam Tống,
đời Nguyên, Bạch Liên giáo trà trộn vào Di-lặc giáo, giả mượn danh Di-lặc để
mưu phản …
Ở Việt
Vì sao con người lại cả tin vào sự tận thế kề cận ? Mặc dù việc
Di-lặc hạ sanh là một sự thật, được Phật thọ ký, điển tịch đã ghi rõ ràng như trên
đã dẫn, nhưng tính sơ sơ phải đến 57 tỷ 60 triệu năm nữa Di-lặc mới ra đời,
người ta vẫn tin là kề cận. Thế mới thấy nỗi khát khao hạnh phúc của loài người
lớn lao như thế nào !
Đời sống vốn dĩ ngắn ngủi, đêm vô minh thì lại dặm dài. Chiến
tranh, bệnh tật, môi trường, như treo lơ lửng trước mạng sống con người lưỡi
hái vô tri của sự hủy diệt. Sống, hay nói khác hơn là sự hấp hối, thống thiết và
điêu linh, con người cô đơn lắm, yếu đuối lắm, người ta cần một chỗ dựa tinh
thần, một chốn quay về, một nơi ủy thác. Ở đó hứa hẹn một sự an lạc, trường
thọ, hoan hỷ, không có cướp bóc, giết chóc, lường gạt, phỉnh phờ nhau. Một
thiên đường không tưởng ? Không ! Nó vẫn có ! Ở đâu ? Ở ngay trên nụ cười
Di-lặc.
Từ bi hỷ xả là Tịnh độ Di-lặc, trụ nơi vô sở trước là cội Long
Hoa, hành trì giới định huệ là đang lắng nghe ba hội thuyết pháp, và chính cái tâm
Không là Đức Phật tại thế. Sáu mươi tỷ năm cũng ở tại bây giờ, đợi chờ chi, tìm
kiếm gì, khi pháp giới tụ về trong gang tấc ?
Mỗi Đức Phật chủ về một hạnh, như Đức Di-đà chủ hạnh Trang nghiêm,
Đức Thích-ca chủ hạnh Thanh tịnh, cũng vậy, Đức Di-lặc chủ về hạnh Hỷ xả. Kinh
điển vẫn là kho báu nghìn đời để bất kỳ ai biết hoạt dụng những lời dạy của
Phật thành những tâm tư hãn hữu lúc bình sinh. Bạn tín ngưỡng Di-lặc ? Hãy cười
lên, hãy nhìn chúng sanh với ánh mắt từ bi, hãy đến với loài người bằng tấm
lòng hỷ xả. Nếu ngay hôm nay Di-lặc hạ sanh mà tâm người tạo ngũ nghịch thập ác
thì làm sao được gặp Ngài ? Làm sao ở trong giáo pháp của Ngài ? Theo luận giải
của chư Tổ nhiều đời, Kinh Di-lặc nhiếp thâu vạn pháp, dung nạp Tam thừa, giá
trị đạo lý của nó vẫn trường tồn cùng tuế nguyệt, dung nạp mọi căn cơ. Tụng đọc
kinh điển với tâm tư như vậy, với sự tín thành như vậy, thì Tịnh độ Di-đà hay
Di-lặc nào khác gì nhau ?
Ước mơ của nhân loại là vươn tới một thế giới an lạc, không có
chiến tranh, hận thù, không có khổ đau, tật bệnh. Một thế giới với một môi
trường hoàn hảo, chẳng phải là những hoài bão đã được chư Phật khai duyên qua Kinh
Di-lặc Hạ Sanh sao ? Thế thì tại sao lại viễn vông tìm cầu hạnh phúc nơi những
hứa hẹn xuôi suông, nơi những danh từ rỗng tuếch, mà không kính thành đọc tụng
kinh văn, thực hành công hạnh, như lời nguyện cầu tha thiết cho thế giới hòa
bình, nhân dân an lạc ?
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự