- mắt
(nhãn căn)
- tai
(nhĩ căn)
- mũi
(tỷ căn)
- lưỡi
(thiệt căn)
- thân
(thân căn)
Trên
phương diện tinh thần con người có ý (ý căn) ghép vào thành lục căn.
Dẫu
ta định nghĩa rằng lục là sáu, căn là giác quan, nhưng gọi là sáu căn thì nghe
được, nhưng nói là sáu giác quan thì lại không ổn lắm, bởi thông thường người
ta hay gọi “giác quan thứ sáu” là sự linh cảm, mà sự linh cảm thì vượt xa hơn
phạm trù của ý căn. Về phần này nếu có điều kiện tìm hiểu thêm về duy thức học,
quí phật tử sẽ rõ hơn. Trong phạm vi bài này tôi không thể giảng hết được, hẹn
dịp khác vậy. Ở đây chúng ta chỉ tạm tìm hiểu về việc làm chủ lục căn thôi.
Mỗi
căn có một đối tượng tiếp xúc riêng, gọi là trần. Vậy nên ta có sáu trần:
- sắc
trần (cảnh vật)
- thanh
trần (âm thanh)
- hương
trần (mùi hương)
- vị
trần (vị)
- xúc
trần (cảm giác ở thân)
- pháp
trần (cảnh ở trong tâm).
Chính
sáu căn này làm ra cơ sở tiếp xúc với sáu trần để sinh ra sáu thức rồi khởi tâm
phân biệt, yêu ghét và từ đó tạo ra muôn ngàn tội lỗi. Nếu nói vậy thì sẽ có
người thắc mắc: Thế thì những người không đầy đủ lục căn như mù mắt, điếc tai,
tâm thần… chắc ít có điều kiện tạo tội? Vậy hổng lẽ ta tự huỷ hoại bớt… vài căn
của mình để hạn chế gây tội? Chà, cái này khó dữ a, dù ai có sợ tội tới đâu,
bảo đảm cũng không dám chọn cách tránh tội dại dột kiểu này! Vả lại đức Phật
nói: Được thân người, có đầy đủ lục căn được gặp Phật pháp là một phước báu.
Quí phật tử ngồi đây đều có phước báu lớn, vừa được thân người đầy đủ lục căn,
lại vừa được gặp Phật pháp. Dẫu được thân người nhưng nếu thiếu một căn là bất hạnh
rồi, nếu người bị điếc thì làm sao nghe thuyết pháp mà hiểu đạo được phải
không?
Con người có lục căn cũng như có gia tài, tiền bạc vậy, nếu sử dụng đúng
thì đem lại hạnh phúc, an vui; nếu sử dụng sai thì chuốc lấy khổ đau, bất hạnh.
Thử nghĩ xem, nếu quí phật tử có tiền đem làm từ thiện, giúp đỡ cho người nghèo
thì có đem lại niềm vui cho mình cho người hay không? Còn nếu có tiền đi mua
thuốc phiện, hút chích ma tuý, ăn chơi sa đoạ thì có phải đem lại cái hại cho
mình, cho người hay không? Do vậy, biết làm chủ một cách sáng suốt gia tài,
tiền bạc mà mình có, là đem lại hạnh phúc. Lục căn là một “gia tài” vô giá của
con người, biết làm chủ lục căn sẽ mang lại an lạc.
Thế
nào là làm chủ lục căn?
Làm
chủ lục căn có nghĩa là luôn chánh niệm và tỉnh giác khi căn tiếp xúc với trần,
giữ vững tâm ý luôn thanh tịnh.
Cổ
đức có dạy:
Mắt
thấy sắc trần chớ ước ao
Tai
nghe ngoài cửa chẳng đem vào
Mũi
dầu có ngửi hương đừng nhiễm
Lưỡi
nếm vị ngon chẳng khát khao
Thân
xúc chạm mềm, êm không đắm
Ý
tịnh trang nghiêm giới buộc, rào
Trí
thường soi tỏ đường chơn giác
Tánh
tịnh Niết Bàn tối thượng trao.
Như
chúng ta thấy tượng ngài Di Lặc, vị Phật tương lai có năm đứa con nít (một đứa
tiềm ẩn bên trong) đứa moi mắt, đứa móc tai… mà Ngài vẫn cười, an nhiên tự tại.
Bởi Ngài đã làm chủ được lục căn, tức làm chủ hoàn toàn với mọi tác động của
trần duyên bên ngoài.
Người
Hoa thể hiện triết lý của mình qua hình tượng bốn con khỉ: con bịt mắt, con bịt
tai, con bịt miệng, con ôm bụng là một cách thể hiện sự chế ngự lục căn. Không
cắt đứt, không liên hệ với bên ngoài mà chính là ngăn chặn, chế ngự, kiểm soát,
thu thúc lục căn; không để duyên trần chi phối.
Nếu
mắt ta thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý
phân biệt, cái gì thích thì chạy theo, manh tâm chiếm đoạt, cái gì không ưa thì
ghét bỏ, trừ khử thì đó chính là giặc. Tu tập chính là tỉnh giác để chủ động
với lục căn, biến lục căn thành lục thông.
Đối
với người tu, mắt cũng cần thấy sắc, tai cũng cần nghe …, tuy vẫn thấy nghe mà
không đắm nhiễm. Đạo Phật chủ trương không đắm nhiễm để được tự tại, an nhiên.
Vì thực ra, tự thân của lục trần vốn không có lỗi. Cái lỗi lớn nhất là tâm phân
biệt, thương ghét, vọng tưởng điên đảo của con người. Con người vì đắm nhiễm
lục trần mà đau khổ triền miên, trôi lăn mãi trong luân hồi sanh tử. Mắt vẫn
thấy sắc, tai vẫn nghe tiếng, mũi vẫn ngửi mùi… nhưng không đắm nhiễm, đó là
làm chủ được lục căn.
Làm
sao để làm chủ lục căn?
Chắc
quí phật tử sẽ nói: Cái thân mấy chục ký của mình, cái tai cái mắt cái mũi cái
lưỡi của mình, đương nhiên mình làm chủ được, có gì khó? Vậy mà không dễ đâu.
Một ông giám đốc làm chủ cả ngàn công nhân mà mọi người cứ nghe theo răm rắp,
vậy mà chưa chắc gì về nhà ổng làm chủ được vài người trong gia đình ổng. Làm
chủ người khác coi vậy mà còn dễ hơn làm chủ mình, bởi vậy kinh Pháp Cú có nói:
“Đánh thắng vạn quân không bằng tự thắng lòng mình”. Làm chủ mình coi vậy mà
khó lắm đó chớ không dễ đâu! Ở đây tôi sẽ nêu ra những ví dụ do không làm chủ
được lục căn nên đã gây ra những tai hại như thế nào, rồi quí phật tử lấy đó mà
ngẫm nghĩ, tự quán thấu, rút ra cho mình những phương pháp để làm chủ lục căn
một cách thích hợp và hiệu quả nhất cho bản thân.
* Đối
với nhãn căn: Tạm thời tôi chia làm hai mức:
- Mức
thứ nhất là biết mà cố đắm nhiễm: Biết là không hay mà vẫn thích nhìn ngắm, ví
dụ như ai cũng biết cảnh đánh nhau bạo lực, máu đổ đầu rơi là không nên nhìn,
người biết đạo, biết thế nào là tàng thức thì càng tránh xa không huân tập vào
tâm mình những hình ảnh xấu. Vậy mà hễ đi đường thấy cảnh đụng xe là xúm đen
xúm đỏ vào coi, coi xong rồi về nhà nhớ hoài cảnh rùng rợn đó đến ăn nuốt không
vô, vậy mà vẫn coi, vừa hại mình mà đôi khi lại vừa hại người nữa, có lần tôi
chứng kiến cảnh tai nạn giao thông, nhiều người đang bị thương cần cấp cứu mà xe
bệnh viện không thể vào được vì những kẻ “ham coi” bu đen hết, kẹt xe cả một
đoạn đường dài! Vậy có phải là vô tình giết chết người không? Hoặc phim ảnh đồi
trụy, bạo lực, ai cũng biết đó là xấu, nhưng già trẻ lớn bé vẫn bỏ thời gian
(cái rất quí được ví với vàng bạc) ra để coi. Đó là không làm chủ được nhãn
căn, để nó dẫn dắt đưa ta vào chỗ có hại.
- Mức
thứ hai là vì tâm phân biệt mà đắm nhiễm: Khi nhìn thấy một vật ta cho là đẹp,
ta sanh tâm ham thích rồi bằng mọi giá chiếm đoạt về làm sở hữu. Trong khi đó
bản thân cái đẹp xấu vốn do tâm sinh. Tuỳ theo thời gian, theo không gian mà
quan niệm về cái xấu cái đẹp khác nhau. Hồi xưa mấy bà mấy cô nhuộm răng đen
hạt huyền là đẹp, ngày nay thì tìm đủ cách tẩy răng trắng như ngọc trai mới là
đẹp. Xưa đẹp khác nay, Tây đẹp khác Ta. Tui hình tướng như vầy có người chê:
ông thầy ốm nhom ốm nhách, có người nói ông thầy có dáng thanh cao… Đối với
người này là đẹp, với người kia là xấu, đẹp xấu là do sự phân biệt của mình,
vậy mà ta cứ mãi chạy theo để rồi sa vào cái khổ thứ năm là “cầu bất đắc khổ!”
Quí
phật tử có đi ngang vùng biển ban đêm, thấy ngoài xa đèn giăng sáng rực rỡ rất
đẹp, biết gì hông? Đèn câu mực đó. Người ta lấy ánh sáng làm bẫy, con mực thấy
đèn sáng đẹp là bu vô. Con thiêu thân cũng vậy, chết vì đắm nhiễm sắc trần.
*Đối
với nhĩ căn: Âm thanh có tác động rất quan trọng đến tinh thần con người, thanh
thiếu niên bây giờ đa số thích nghe những bài nhạc kích động, nghe những bài nhạc
như vậy thì tự nhiên con người cũng muốn phá phách, nổi loạn. Quí phật tử đi
chùa nghe tiếng chuông mõ, tụng kinh thì thấy lòng an lạc, còn với những người
đời chỉ thích bon chen thì nghe tiếng tụng kinh chỉ thấy buồn ngủ. Ngày xưa bao
triều vua sụp đổ cũng vì nghe lời ton hót của nịnh thần. Ngày nay có những tin
đồn thất thiệt đem đến cái hại cho biết bao người.
Trẻ con ở trong môi trường
nào sẽ hấp thu lời nói của môi trường đó, nếu ở nhà cha mẹ cứ nói những lời cộc
cằn, hở ra là chửi thề thì chúng cũng sẽ nhiễm những lời ấy do chúng chưa có ý
thức làm chủ được nhĩ căn của mình. Bà mẹ Mạnh Tử ngày xưa nhà ở gần nghĩa địa,
Mạnh Tử cứ suốt ngày lấy kèn thổi nhạc đám ma, bài trò khóc lóc… Bà thấy vậy
mới dời nhà đến ở gần trường học, chú bé Mạnh Tử nghe tiếng học bài quen tai
nên đầu óc sau này mới dễ dàng tiếp thu học thức. Làm chủ nhĩ căn là biết chọn
lọc, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối,
gièm siểm, lời ác độc, khích bác lẫn nhau. Biết huân tập vào mình những âm
thanh tốt đẹp thì tâm hồn mới an lạc thuần khiết.
*Đối
với tỷ căn: Mùi hôi thì ai cũng không thích nhưng có những thứ hôi mà người vẫn
thích, ví như các loại mắm tôm, mắm ruốc… Cái này chắc mọi người ở đây đều biết
hết ha? Đi ngang mấy chỗ ủ mắm, eo ơi nó hôi bất nhơn vậy mà đa số mọi người
vẫn ghiền cái mùi đó! Tây nó qua mình nghe cái mùi mắm nó chạy không kịp. Mấy
thầy mình đi qua Ấn Độ, Thái Lan, nghe mùi món ăn truyền thống của họ mình lại
rất khó chịu. Đối với người này là thơm, đối với người khác là hôi. Mùi hương
là vậy mà ta cứ khởi tâm phân biệt, rồi ưa thích và không ưa thích, sanh ra đủ
thứ phiền toái.
*Đối
với thiệt căn: Món ăn ngon ai cũng ưa thích, ông bà ta thường nói: “Bệnh tùng
khẩu nhập, hoạ tùng khẩu xuất”, có những món biết là ăn vào thì sanh bệnh,
nhưng do không làm chủ được cái lưỡi thích nếm vị ngon mà hại cho cái thân. Tôi
đọc báo thấy kể chuyện thợ săn vô rừng bắn thú, vì đi nhiều ngày mới về nên cứ
ướp phoọc môn vào rồi đào lỗ chôn con vật xuống, xong đi tiếp có khi đến nửa
tháng, bận về mới đào lên, đem vô thành phố bỏ mối cho mấy quán đặc sản thịt
rừng. Các bà các ông xúm vào ăn, hoá ra ăn thịt “tử thi” xác ướp lâu ngày mà
không biết!!! Nói chi xa, ngay quí phật tử mình đây ai cũng biết ăn mặn là tạo
tội, ăn chay là tốt, vậy mà mấy ai làm chủ được cái miệng thích ăn thịt cá của
mình đâu! Rồi có người thích ăn cay, ăn ớt. Bữa ăn nào không có ớt là khổ sở
không thể ăn. Rồi có người ghiền rượu v.v… Ăn uống vô khỏi cổ, qua khỏi cái
lưỡi rồi thì còn biết ngon không? Vậy mà chỉ vì chìu theo cái lưỡi, không làm
chủ được nó, để nó sai khiến. Tôi nhớ trong dân gian có câu: “Miếng ăn là miếng
tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu!” nghe thiệt là thấm thía.
Tích
Tàu có một gương rất độc đáo: đó là nhân vật Tôn Tẩn. Khi Tôn Tẩn bị Bàng Quyên
bắt giam, vì muốn bảo toàn tánh mạng mình, đành giả điên để được tha. Để “trắc
nghiệm” coi Tôn Tẩn có bị điên thiệt không. Bàng Quyên sai người mang vào chén
cơm và chén phân, rồi rình xem Tôn Tẩn chọn ăn thứ nào? Tôn Tẩn đã ăn chén phân
để đánh lừa Bàng Quyên và được thoát nạn. Điều khiển được tỷ và thiệt căn của
mình như vậy quả là phi phàm!
*Đối
với thân căn: Trường phái tu khổ hạnh thời trước đức Phật rất phổ biến, hành
giả tự lấy roi quất vào mình đến chảy máu, phơi nắng nằm sương, bất kể xúc cảm của
thân, phương pháp tu ấy cũng một phần nhỏ là nhằm làm chủ thân căn, đương nhiên
mục đích chính của các vị ấy là hành xác do quan điểm sai lầm về cái khổ, nhưng
thôi, ở đây ta không phân tích sự đúng sai hay dở của vấn đề này, chỉ là ví dụ
để quí phật tử thấy được một góc nhỏ trong vấn đề làm chủ thân căn. Một trường
hợp nữa trong lịch sử nước Tàu: ngày xưa Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật để
rèn luyện ý chí kiên cường. Thân là vua mà khi thất thế, ông tập mình ngày ngày
nằm trên giường lót gai để nuôi chí phục quốc, cũng là một trường hợp điều
khiển được thân căn một cách đáng nể.
*Đối
với ý căn: Khi sáu căn duyên với sáu trần làm điều kiện cho sáu thức phát khởi.
Trong sáu thức thì ý thức giữ vai trò quan trọng nhất: phân biệt, suy lường để
yêu ghét. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy: Trong các pháp tâm làm chủ, tâm dẫn
đầu, tâm tạo tác tất cả. Muốn tâm ý luôn ngay thẳng, chơn chánh không điên đảo
thì phải luôn chánh niệm. Để thành tựu chánh niệm, ngoài sự tỉnh giác cao độ
khi đối diện với trần cảnh còn có sự trợ duyên vô cùng to lớn của giới luật. Giới
luật là những điều răn cấm, là hàng rào để ngăn ngừa phát sinh tội lỗi, tạo cho
chúng ta luôn thăng hoa, hướng thượng. Trong kinh Di Giáo, Đức Phật dạy: Này
các Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, các ông phải lấy giới luật làm thầy. Như đi
đêm tối gặp đèn sáng, như người nghèo gặp của báu, dầu ta sống bao lâu trên đời
vẫn không bằng pháp này vậy. Quí vị là phật tử thì cố giữ năm giới của phật tử,
quí vị có một tổ chức, cơ quan, đoàn thể thì cũng cần có qui luật, qui định
riêng. Phải rèn luyện và tu tập từ cách suy nghĩ, hành xử đều đúng theo Bát
Chánh Đạo.
Muốn trở thành người tốt hay người xấu là chính nơi mình, vì vậy mỗi
người phải nỗ lực phấn đấu, phải tự rèn luyện. Ví dụ, người phật tử vâng giữ
năm giới, trong đó bốn giới đầu thuộc về tánh tội, nghĩa là tội từ trong bản
chất của chúng sanh. Giới không uống rượu thuộc về tướng tội, do hoàn cảnh và
sự huân tập trong hiện đời. Nếu phạm bốn giới tánh là bị mất hết nhân cách của
người phật tử. Về thế gian nếu phạm nghiêm trọng bốn giới căn bản này cũng là
vi phạm pháp luật, dẫu là phật tử hay không phải là phật tử thì khi phạm bốn
giới này đều bị luật pháp hành xử. Còn giới tướng uống rượu là do hoàn cảnh
phát sinh. Giữ giới là bổn phận, là ý thức muốn trở thành một con người tốt.
Nên muốn trở thành Bồ tát, thành Phật thì phải thực hành tu tập giới luật. Muốn
đèn không tắt thì phải có bóng đèn chắn che mưa gió, muốn ngựa hay nên phải
thắng dây cương, bóng đèn hay dây cương ở đây chính là giới luật. Giới luật cầm
cân, nẩy mực cho con người, giúp họ từ xấu ác trở thành hiền thiện.
Một
khi ánh sáng tới thì bóng tối tan biến, làm việc lành thì bỏ việc ác, niệm Phật
thì không niệm chúng sanh, không niệm phiền não. Đó là nói về làm chủ lục căn,
nhờ phát huy trí tuệ nên không mê mờ, không nhằm lẫn, thiện ác phân minh nên
mới thành tựu mắt thấy, tai nghe mà không chấp. Bởi đã chấp trước thì chắc chắn
sẽ bị dính mắc, mà dính mắc là đầu mối, căn nguyên của sanh tử luân hồi. Nên
nói:
Sắc
trần nhọn bén chẳng thua dao
Thanh
trần nhiễm tiếng khổ biết bao
Hương
trần yêu thích thêm khổ lụy
Vị
trần ngon ngọt bỏ cho mau
Xúc
trần giả hợp đừng say đắm
Pháp
trần không tánh chớ bám vào.
Sáu
câu trên, đứng về phương diện thô của ngũ dục lạc thì có: tài, sắc, danh, thực,
thuỳ. Đây là năm món dục mà chúng sanh hằng mong muốn, tìm cầu và ưa thích.
Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ lắm khi là mục đích phấn đấu,
đeo đuổi của một đời người. Đứng về phương diện rộng và vi tế là sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Chính trần cảnh làm cho con người đảo lộn, con người tham
đắm chạy theo và cuối cùng chắc chắn sẽ khổ vì nó.
Trí
tuệ sáng soi toàn thế giới
Chơn
tâm bình đẳng sẵn dành trao.
Khi
trí tuệ sáng soi, chơn tâm hiển lộ thì không có cái gì xấu đẹp, cao thấp, hay
dở; tất cả đều bình đẳng và hiển bày thực tướng dưới ánh sáng của trí tuệ. Hai
câu này là phương tiện hữu hiệu và thù thắng nhất để dứt lục căn, đoạn lục trần.
Đã
là con người thì không ai không có tội. Điều quan trọng trong đạo Phật là không
sợ người làm tội mà sợ người không biết hối, không biết ăn năn hối lỗi. Một
triết gia phương Tây có câu: “Người biết lỗi mình đã là khó, biết lỗi rồi mà
biết sửa sai lại càng khó hơn”. Đức Phật dạy phương pháp biết lỗi là cùng nhau
sách tấn, khuyên lơn, soi sáng cho nhau. Vì con người thường chủ quan cho mình
là đúng, là phải, không bao giờ chịu nhận lỗi; mà khi mình nhận lỗi thì mình có
tiến bộ. Mỗi ngày, phải tự tạo cho mình thời khoá, tự tích luỹ thiện nghiệp cho
mình, đừng vì vô vàn lý do mà thối thác.
Chúng ta mỗi ngày mỗi cố gắng, phải
tinh tấn, nỗ lực không mệt mỏi, không một cố gắng nào mà không đưa đến thành công.
Tại sao thỏ phải thua rùa? Vì thỏ ỷ mình chạy nhanh nên nằm ngủ còn rùa thì
biết thân phận nên nỗ lực, cố gắng. Chúng ta cung vậy, vô thường lão bệnh bất
dữ nhân kỳ, có ai hẹn được đến 80 tuổi mới chết đâu? Vì thế, khi có đủ điều
kiện gì thì gắng mà tu, đừng chờ đợi. Làm bất cứ việc gì phải cố gắng làm
thiện, nghĩ thiện thì tâm hồn mình sẽ thư thái. Khi làm ác hối hận, ăn năn thì
việc đã qua. Người trí thì không để nước tới chân mới nhảy, phải biết trước hậu
quả của nó, phải ngăn chặn từ nơi lục căn.
Chúng
ta phải tin chắc, trọn vẹn vào lý nhân quả. Nhìn vào tự thân của mỗi người
trong hiện tại để biết rằng mình đã tạo những nhân gì trong quá khứ. Căn cứ vào
những hành xử trong cuộc sống hiện tại để biết kết quả ở tương lai. Nhân tốt
thì quả tốt.
Tóm
lại, tu học chính là phải nhận định rõ ràng, bất cứ hành động nào cũng có thể
sai phạm, tạo ra tội lỗi. Nếu người sống chỉ biết tìm cầu, chạy theo khoái lạc,
không nhiếp hộ các căn thì chỉ như cành mềm trước cơn gió lốc. Nếu người biết
khắc kỷ, biết nhìn lại mình, biết tỉnh giác và chánh niệm để tự chủ trước duyên
trần giống như gió thổi núi đá. Chúng ta phải có lập trường tu học cho chính
mình, phải quyết chí và kiên trì. Vì vậy, cần phải tu trong mọi hoàn cảnh, thu
thúc các căn không cho sai phạm, để được an lạc ngay trong đời này và đời sau.
Người
đời đi qua các bước: “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Người tu cũng vậy,
trước nhất làm chủ được mình, làm chủ được lục căn của mình, bước dần theo con
đường Bát Chánh Đạo rồi mới tìm chân lý giải thoát.
Cầu
nguyện Tam Bảo gia hộ cho đạo tràng thân tâm thường lạc và tu tập thành công.
Tác giả bài viết: cố TT Thích Tâm Thanh
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự