A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya (chiến sĩ giai cấp
nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ), con của vua Amitodana.
Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana (Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức
Phật). Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức
Phật trở về Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) để thăm vua cha và thân quyến lần đầu
tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng
trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt
cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử
khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đường mà
đức Thế Tôn đang đi.
Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp
thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe
Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu (Sotàpatti -
Tu đà hoàn) -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát (Dự lưu, Nhất lai, Bất
lai, A-la-hán).
Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có
thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn
chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực
phẩm mà thiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở
chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà
thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi
mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp
đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật
hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể
từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã
tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc
đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm
đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.
Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm,
ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ,
song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung,
sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu
chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga (Ma Đăng Già) và nhiều chi tiết sinh
động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó.
Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh
lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn
toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập
diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức
Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy
trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không
còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận
biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc,
này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải
chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữu là vô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con
đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để
thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" (Anguttara Nikàya - Tăng
Chi). Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh
điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp (Maha
Kasyapa) chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán
và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn
giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." (Như thị ngã văn), mà
mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.
Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A
Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài
được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thực
và bền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người
luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập (Anguttara
Nikàya - Tăng Chi). Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một
tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.
Nguồn tin: theo tuvien
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự