Trong
kinh điển nguyên thủy, Bố Thí là một đức hạnh tối quan trọng mà Đức Phật thường
giảng dạy và khuyên nhủ chúng ta nên cố gắng tu tập. Tứ nhiếp pháp cũng được
ghi lại trong kinh điển. Thêm vào đó, trong khi kinh điển Bắc truyền có ghi 6
pháp Ba-la-mật, kinh điển nguyên thủy đề cập đến 10 pháp Ba-la-mật của hàng Bồ
Tát, gồm: Bố thí, Trì giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Kiên nhẫn, Chân thật,
Chí nguyện, Từ tâm, và Xả ly. Cho nên, khái niệm về các hạnh Ba-la-mật trong
tất cả các tông phái đều rất giống nhau, đều đề cao Bố Thí như là đức hạnh đầu
tiên cần phải được tu tập.
Ở đây,
chỉ xin trình bày tóm tắt, giới hạn trong phạm vi pháp bố thí trong thế gian,
về các lời dạy của Đức Phật cho hàng đệ tử cư sĩ tại gia chúng ta, như đã ghi
lại trong Kinh Tạng Nikàya nguyên thủy.
"Bố
Thí" là chữ Hán Việt, gồm chữ "Bố" và chữ "Thí".
"Bố" là bày ra, ban rộng ra, trải đều ra; như trong những chữ: ban
bố, phân bố, tuyên bố, công bố, bố trí, bố cục, bố cáo, bày binh bố trận.
"Thí" còn đọc một âm khác là "Thi", nghĩa là thực hiện, áp
dụng, làm ra; như trong những chữ: thí nghiệm, thí điểm, thí công (thi công)
"Bố
thí" có nghĩa là làm cho rộng ra, trải rộng ra, phân chia cùng khắp. Từ đó,
Bố Thí mang một ý nghĩa là: chia xẻ, san sẻ. Tiếng Anh thường dịch là: Giving,
Donating, Sharing. Trong tiếng Phạn Pàli, Bố Thí là: Dàna, hay Càga.
"Dàna"
thường được phiên âm là "Đàn-na", có khi chỉ gọi tắt là
"Đàn", như trong cụm từ "Đàn Ba-la-mật", có nghĩa là
"Đàn-na Ba-la-mật", "Dàna Pàrami", hay là hạnh Ba-la-mật về
sự Bố Thí.
Trong
kinh sách, đôi khi chúng ta thấy có sự dùng chữ kết hợp âm tiếng Phạn và tiếng
Hán. Thí dụ như chữ "Đàn chủ": Đàn là từ chữ Phạn "Dàna",
Chủ là tiếng Hán. Đàn Chủ là người đứng ra thực hiện việc bố thí cúng dường,
tiếng Pali là "Dànapati".
"Đàn
chủ" cũng còn được gọi là "Thí Chủ". Chữ "Thí" ở đây
là nói tắt từ chữ "Bố Thí". Trong thuật ngữ Phật học, chữ
"Thí" không còn mang nghĩa đen là "làm, thực hiện, hành
động", mà thường được hiểu như là chữ tắt của "Bố Thí". Ngoài
chữ "Thí Chủ", chúng ta thường thấy các chữ khác như là: Đàn-na tín
thí, nhà thương thí, thí thực, thí cô hồn, tài thí, pháp thí, niệm thí, v.v.
Tất cả đều có hàm chứa ý nghĩa "Bố Thí".
Trong
Trường Bộ, kinh 33; trong Kinh Phật Thuyết Như Vậy, Chương 3 Pháp; và trong
Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Đức Phật có dạy 3 pháp hành để tạo căn bản phước
báu trên đường tu tập. Đó là: Bố thí (Dàna), Trì giới (Sìla), và Tu thiền
(Bhàvanà): "Này các Tỳ-khưu, có ba phước nghiệp sự này. Đó là: Phước
nghiệp sự do bố thí tác thành, phước nghiệp sự do giới tác thành, và phước
nghiệp sự do tu thiền tác thành".
Bố
thí là một trong 3 hạnh kiểm được người hiền trí, bậc thiện nhân tán thán. Đó
là: Bố thí, Xuất gia, và Phụng dưỡng cha mẹ. "Xuất gia" (pabbajjà) ở
đây có ý nghĩa là sự thiểu dục, sự thoát ly điều bận rộn phiền não, thọ trì
pháp không não hại, sống chế ngự, điều phục và hòa hợp. Trong Tăng Chi Bộ,
Chương Ba Pháp, Đức Phật dạy: "Này các Tỳ-khưu, có ba pháp được người Hiền
trí tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Đó là: Bố thí, Xuất gia, và Hầu hạ
cha mẹ."
Bố
thí cũng là một trong bốn pháp để thu phục nhân tâm, chung sống hài hòa trong
gia đình cũng như trong Tăng chúng và trong xã hội. Tăng Chi Bộ, Chương 4 Pháp,
có ghi lại lời khuyên của Đức Phật như sau:
-
Này các Tỷ-kheo, có bốn nhiếp pháp này. Thế nào là bốn?
Bố
thí và ái ngữ,
Lợi
hành và đồng sự
Hỡi
các vị Tỷ-kheo,
Ðây
là bốn nhiếp pháp.
Bố
thí và ái ngữ,
Lợi
hành và đồng sự,
Ðối
với những pháp này,
Ở
đời đối xử nhau,
Chỗ
này và chỗ kia,
Như
vậy thật tương xứng.
Và
bốn nhiếp pháp này,
Như
đỉnh đầu trục xe,
Nếu
thiếu nhiếp pháp này,
Thời
cả mẹ lẫn cha
Không
được các người con
Tôn
trọng và cung kính.
Do
vậy bậc Hiền trí,
Ðồng
đẳng nhìn nhiếp pháp
Nhờ
vậy họ đạt được,
Sự
cao lớn, tán thán.
Trong
truyền thống Nam tông, một trong những bài kinh mà chúng ta thường được nghe
tụng đọc là kinh Đại Hạnh Phúc (Mahà-Mangala Sutta), thuộc Kinh Tập, Tiểu Bộ.
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Bố thí là một trong 38 điều mang lại
hạnh phúc tối thượng cho người cư sĩ tại gia chúng ta. Đức Phật còn cho biết
rằng Bố thí là một trong ba yếu tố để biết được một người có lòng tin trong
sạch nơi Chánh Pháp, như đã ghi lại trong Tăng Chi Bộ, Chương 3 Pháp:
Do
ba sự kiện, này các Tỳ-khưu, một người được biết là có lòng tin. Thế nào là ba?
(1) Ưa thấy người có giới hạnh, (2) ưa nghe diệu pháp, (3) với tâm ly cấu uế
của xan tham, sống trong nhà, bố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ
bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, thích phân phát vật bố thí."
Một
người bố thí trong sạch như thế, theo lời Đức Phật, sẽ tạo được một tài sản rất
lớn, không bao giờ bị lửa đốt cháy, lụt làm trôi mất, bị ăn trộm, bị chánh
quyền tịch thu, hay bị kẻ thù địch lấy đi mất. Tài sản phước báu do hạnh Bố Thí
tạo ra là một trong 7 loại tài sản cao quí nhất - gọi là thánh tài - mà chúng
ta có thể tích lũy được. Đức Phật dạy trong Tăng Chi Bộ, Chương 7 Pháp:
Này
các Tỳ-khưu, có bảy tài sản này. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài,
quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài. (...) Và này các Tỳ-khưu, thế nào là thí
tài? Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử với tâm từ bỏ cấu uế của xan tham,
sống tại gia phóng xả, với bàn tay rộng mở, ưa thích xả bỏ, sẵn sàng để được
yêu cầu, ưa thích san sẻ vật bố thí. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là thí tài.
Bố
Thí cũng được xem là một loại hương thơm cao quý, tỏa ra cùng khắp, theo mọi
hướng, tạo ra nhiều tiếng lành, danh thơm cho xóm làng hay cộng đồng nơi chúng
ta sinh hoạt. Trong Tăng Chi Bộ, Chương 3 Pháp, Ngài Ananda hỏi Đức Phật:
- "Bạch
Thế Tôn, loại cây hương gì có mùi hương bay thuận gió, có mùi hương bay ngược
gió, có mùi hương bay thuận gió lẫn ngược gió?
Đức
Phật trả lời:
- "Ở
đây, này Ananda, tại làng nào hay tại thị trấn nào, có nữ nhân hay nam nhân quy
y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, tuân giữ 5 giới, tâm tánh hiền lương,
sống trong nhà với tâm không nhiễm xan tham, bố thí không luyến tiếc với tay
rộng mở, thích thú từ bỏ, sẵn sàng được yêu cầu, ưa thích chia xẻ đồ bố thí.
Người như vậy, được các Sa-môn, Bà-la-môn, Chư Thiên và các phi nhân đều tán
thán. Và như thế, người đó là loại cây hương quý. Cây hương đó, này Ananda, có
mùi hương bay thuận gió, có mùi hương bay ngược gió, có mùi hương bay thuận gió
lẫn ngược gió".
Tuy
nhiên, hạnh Bố Thí không phải là một điều dễ thực hiện như nhiều người thường
hiểu lầm. Đây là một pháp môn tu tập đòi hỏi chúng ta phải tinh tấn, có chánh
niệm và trí tuệ.
Trước
hết, Đức Phật dạy rằng khi bố thí, chúng ta phải biết nhận thức rõ ràng về vật
cho, cách cho, và tâm ý cho. Trong Tăng Chi Bộ, Chương 8 Pháp, Ngài dạy:
"Này
các Tỳ-khưu, có tám sự bố thí của bậc chân nhân. Thế nào là tám? Cho vật trong
sạch; cho vật thù diệu; cho đúng thời; cho vật thích ứng; cho với sự cẩn thận;
cho luôn luôn; khi cho, tâm tịnh tín; sau khi cho, tâm luôn hoan hỷ".
Như
thế, khi bố thí, vật cho phải là vật trong sạch, vật thù diệu, vật thích ứng;
cách cho phải là cho đúng thời, cho với sự cẩn thận, cho luôn luôn; và tâm ý
cho phải là tâm tịnh tín khi cho, tâm luôn hoan hỷ sau khi cho.
Trong
Tăng Chi Bộ, Chương 5 Pháp, Đức Phật dạy: "Có năm loại bố thí xứng đáng
bậc chân nhân: bố thí có lòng tin; bố thí có kính trọng; bố thí đúng thời, bố
thí với tâm không gượng ép; bố thí không làm thương tổn mình và người." Ngài
cũng dạy về năm loại khác là: "Có năm loại bố thí xứng đáng bậc chân nhân:
bố thí có lòng cung kính; bố thí có suy nghĩ; bố thí tự tay mình; bố thí đồ
không quăng bỏ; bố thí có suy nghĩ đến tương lai".
Về
bố thí cho đúng thời, Đức Phật nêu rõ có 5 loại:
- Bố thí cho người mới
đến trú xứ của chúng ta.
- Bố thí cho người sắp ra đi, rời khỏi trú xứ của chúng ta.
- Bố thí cho người đau bệnh.
- Bố thí trong thời đói.
- Phàm những hoa quả gì mới gặt hái được, dành chúng đầu tiên để cúng dường các
bậc giữ giới hạnh.
Nếu
được như thế, hạnh Bố Thí sẽ mang lại các lợi ích: "Tùy theo vật bố thí,
tùy theo cung cách bố thí, kết quả sẽ đưa đến cho người bố thí với tài sản sung
mãn, với dung sắc thù thắng như hoa sen, với vợ con, các người làm công tận tụy
phục vụ tuân hành, với các vật dụng đến đúng thời, đúng lúc, với năm dục công
đức được thọ hưởng đầy đủ, và với các tai nạn không hề xảy đến."
Trong
các đoạn kinh khác, Đức Phật dạy thêm về các lợi ích khác:
"
Này các Tỳ-khưu, có năm lợi ích này của bố thí. Thế nào là năm?
- Được nhiều người ái mộ, ưa
thích;
- Được bậc thiện nhân, chân nhân thân cận;
- Tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi,
- Không có sai lệch khi thuyết pháp;
- Khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cỏi lành thiên giới.
Về
lợi ích của bố thí thực phẩm: "Người bố thí bữa ăn, này các Tỳ-khưu, sẽ
được hưởng năm kết quả: sống thọ, sắc diện tươi đẹp, sống an lạc, có sức khỏe,
có biện tài".
Thêm
vào đó, theo Chú Giải, để có kết quả to lớn, sự bố thí phải hội đủ 3 điều kiện
thành tựu:
1.
Thành tựu ruộng phước (khettasampatti), tức là nói đến đối tượng thí, người thọ
thí là bậc chánh hạnh, bậc hội đủ các ân đức đặc biệt.
2.
Thành tựu vật thí (deyyadhammasampatti), tức là có vật thí đầy đủ, hợp pháp,
thanh tịnh và thích hợp lợi ích cho người nhận.
3.
Thành tựu tâm ý (cittasampatti), tức là tác ý bố thí có đầy đủ, có tâm tịnh
tín, có tâm hoan hỷ trong ba thời: trước khi làm, đang khi làm và sau khi làm.
Có
2 loại bố thí: bố thí tài vật (tiền bạc, thức ăn, vật dụng) và bố thí pháp
(giáo pháp, các điều hay, lẽ phải). Trong 2 loại nầy, bố thí pháp là cao quý và
có nhiều lợi lạc hơn, như đã dạy trong Kinh Pháp cú (354): "Bố thí Pháp là
cao thượng hơn tất cả các pháp bố thí khác".
Trong
Kinh Phật Tự Thuyết (Iti 98), Đ?c Phật dạy: "Có hai loại bố thí: Bố thí
tài vật và bố thí Pháp. Trong đó, bố thí Pháp là bố thí tối thượng. Có hai sự
phân phát: Phân phát tài vật và phân phát Pháp. Trong đó, phân phát Pháp là
phân phát tối thượng. Có hai loại giúp đỡ: giúp đỡ bằng tài vật và giúp đỡ bằng
Pháp. Trong đó, giúp đỡ bằng Pháp là giúp đỡ tối thượng."
Trong
Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp: "Có hai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố
thí Pháp. Trong đó, bố thí Pháp là tối thắng."
Trong
Tương Ưng Bộ, Tập I, Chương I, có ghi lại câu chuyện trong một đêm nọ, một vị
thiên tử đến hỏi Đức Thế Tôn:
Cho gì là cho lực?
Cho gì là cho sắc?
Cho gì là cho lạc?
Cho gì là cho mắt?
Cho gì cho tất cả?
Xin đáp điều con hỏi?
Đức Thế Tôn trả lời:
Cho ăn là cho lực,
Cho mặc là cho sắc,
Cho xe là cho lạc,
Cho đèn là cho mắt.
Ai cho chỗ trú xứ,
Vị ấy cho tất cả.
Ai giảng dạy Chánh Pháp,
Vị ấy cho bất tử.
Cũng
cần ghi nhận ở đây là có nhiều người thường than phiền rằng vì điều kiện sinh
hoạt làm ăn khó khăn, hay vì hoàn cảnh gia đình, nên họ không có dư tiền của để
thực hiện hạnh bố thí. Tuy nhiên, đó chỉ là các bố thí tài vật. Đức Phật có dạy
rằng nếu người nào giữ lòng tịnh tín, quy y Tam Bảo và giữ tròn 5 giới căn bản,
thì đó là đại bố thí, và là nguồn công đức vô lượng cho chúng sinh, vì người ấy
mang lại sự an vui, thương yêu hài hòa đến cho mọi người, mọi loài sống chung
quanh người ấy. Trong Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Đức Phật dạy:
"Có
tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhân
sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả
ý, hạnh phúc, an lạc. Đó là:
-
Quy y Phật, Pháp, Tăng là 3 nguồn nước đầu;
- 5
nguồn nước kế là giữ tròn 5 giới căn bản. Đó cũng là 5 đại bố thí, bởi vì làm
được như thế, sẽ đem cho sự không sợ hãi (vô úy) cho vô lượng chúng sanh, đem
cho sự không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho sự không hại cho vô lượng
chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không
hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không
hại."
Cũng
xin ghi nhận thêm là trong vài tài liệu kinh sách phát triển về sau nầy, ngoài
Bố thí Tài và Bố thí Pháp, còn có đề cập đến một loại thứ ba là Bố thí Vô úy,
tức là mang đến, san sẻ sự không sợ hãi, không hận thù, không hại. Theo thiển
ý, có thể xem Bố thí Vô úy là kết quả của Tài thí và Pháp thí, không cần phải
tách ra thành một phân loại riêng biệt.
Nếu
chỉ thực hành hạnh Bố Thí không thôi thì cũng chưa tròn đủ. Trong Tăng Chi Bộ,
Chương 5 Pháp, Ngài Xá Lợi Phật có dạy ông Cấp Cô Độc rằng cúng dường, bố thí
tứ vật dụng, tuy tạo nhiều phước báu, nhưng cũng chưa đủ. Người cư sĩ còn phải
gắng tu tập thiền định, để được hỷ lạc do tâm xả ly sinh ra. Lời khuyên nầy
được Đức Phật đồng ý và khen ngợi.
Do
đó, kinh điển nguyên thủy còn ghi lại việc thực hành pháp quán niệm về lòng Bố
Thí, hay "Niệm Thí", như là một trong 6 pháp tùy niệm cần phải tu
tập. Trường Bộ, kinh 34, có ghi:
"Thế
nào là sáu pháp cần phải tu tập? Đó là sáu tùy niệm xứ: Phật tùy niệm, Pháp tùy
niệm, Tăng tùy niệm, Giới tùy niệm, Thí tùy niệm, Thiên tùy niệm. Ðó là sáu
pháp cần phải tu tập."
Và
Đức Phật giải thích thêm cho ông Mahànàma về niệm Thí như sau (Tăng Chi Bộ,
Chương 11 Pháp):
"Này
Mahànàma, Ông hãy niệm Thí như sau: "Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo
được lợi cho ta! Vì rằng với quần chúng bị cấu uế xan tham chi phối, ta sống
trong gia đình, với tâm không bị cấu uế của xan tham chi phối, bố thí rộng rãi,
với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng, để được yêu cầu, ưa thích phân
phát vật bố thí".
Này
Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Thí, tâm của vị ấy không bị tham ám
ảnh, tâm không bị sân ám ảnh, tâm không bị si ám ảnh; trong khi ấy, tâm được
chánh trực nhờ duyên Thí. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma, với tâm chánh trực, có
được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp.
Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân khinh an, cảm
giác lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Này Mahànàma, như vậy gọi là
bậc Thánh đệ tử sống đạt được bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt
được vô sân với chúng sanh có sân, nhập được dòng lưu của Chánh Pháp, và tu tập
tùy niệm Thí."
Trong
Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp, ngoài 6 đề mục quán niệm nêu trên, còn ghi thêm 4
đề mục khác là niệm Hơi thở, niệm Chết, niệm Thân, và niệm Tịch tịnh, như sau:
"Có
một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhất
hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật... niệm Pháp... niệm Tăng... niệm Giới...
niệm Thí... niệm Thiên... niệm Hơi thở... niệm Chết... niệm Thân... niệm Tịch
tịnh. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn".
Xin
giải thích tóm tắt:
1.
Niệm Phật (buddhànussati) là niệm tưởng mười ân đức của Phật.
2. Niệm Pháp (dhammànussati) là niệm tưởng sáu ân đức của giáo pháp.
3. Niệm Tăng (sanghànussati) là niệm tưởng chín ân đức của Tăng chúng.
4. Niệm Giới (sìlànussati) là niệm tưởng giới thanh tịnh của mình.
5. Niệm Thí (càgànussati) là niệm tưởng hạnh bố thí xả tài của mình.
6. Niệm Thiên (devatànussati) là niệm tưởng các công hạnh tác thành chư thiên
và xét lại công hạnh mình có.
7. Niệm Chết (maranasati) là suy niệm sự chết đã, đang và sẽ đến với chúng sanh
luôn cả ta, để làm cho tâm không dể duôi.
8. Niệm Thân hành (kàyagatàsati) là suy niệm thân này cho thấy rằng bất tịnh,
uế trược, ổ bệnh tật, khả ố, thực tính thân này là như vậy, v.v. để từ bỏ sự
luyến ái.
9. Niệm Hơi thở (ànàpànàsati) là niệm về hơi thở vô, hơi thở ra, để trừ sự
phóng tâm.
10. Niệm Tịch tịnh (upasamànussati) là suy niệm trạng thái Niết-bàn, nơi không
còn phiền não và đau khổ, một trạng thái vắng lặng tuyệt đối.
Để
tu tập về pháp quán niệm lòng Bố Thí, có thể xem thêm các hướng dẫn chi tiết
của ngài Luận sư Phật Âm (Buddhaghosa) trong bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi-magga),
do Ni sư Trí Hải dịch Việt, ở Chương VII, đoạn viết về Niệm Thí.
Tóm
lại, Bố Thí là một đức hạnh cao quý mà Đức Phật khuyên tất cả Phật tử chúng ta
cần phải tu tập. Bố thí có 2 loại: Bố thí Tài và Bố thí Pháp, trong đó, Bố thí
Pháp là cao thượng hơn. Khi bố thí, chúng ta phải có chánh niệm và trí tuệ để
nhận thức rõ ràng về vật bố thí, cách thức bố thí, đối tượng nhận bố thí, và
tâm ý của chúng ta khi làm chuyện bố thí. Bố thí cần phải phát nguồn từ lòng
tịnh tín nơi Tam Bảo và tròn đủ giới hạnh để đem lại sự an vui đến cho muôn
loài. Cuối cùng, chúng ta cần phải hành thiền, trong đó, quán niệm về lòng Bố
thí là một pháp môn quan trọng cần phải được tu tập.
Nguồn tin: Theo buddhismtoday
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự