Câu hỏi về Tôn giả A Nan

Thứ năm - 16/04/2009 16:55
HỎI: Được biết, ngài A Nan sinh ra vào ngày Phật thành đạo và năm 25 tuổi mới xuất gia. Như vậy, Phật thành đạo trước hai mươi lăm năm thì ngài A Nan mới xuất gia. Nhưng trong các kinh lúc nào cũng có câu: “Như thị ngã văn” (như vầy tôi nghe) được xem là câu nói của ngài A Nan. Vậy, những bộ kinh mà Phật thuyết trước khi ngài A Nan xuất gia thì làm sao mà ngài nghe được, để sau này trung tuyên lại trong các cuộc kết tập kinh điển?

ĐÁP: Chúng tôi hoàn toán tán thán trước một “nghi vấn” rất hợp lý của bạn! Khi đọc kinh điển Phật giáo, nếu ai cũng biết đặt ra những suy tư, thắc mắc thì con đường hoàn thiện tri thức sẽ gần lại với mỗi người.

Đúng như bạn đã hiểu, ngài A Nan sanh vào năm mà Đức Thế Tôn vừa thành đạo, đến năm 25 tuổi mới xuất gia. Trong cuộc đời của ngài A Nan, ngài đã có một sứ mạng đặc thù: đảm nhận vai trò hậu cần (thị giả) Đức Phật.

Vì lẽ, trong suốt hai mươi lăm đầu, Đức Thế Tôn không có thị giả riêng. Khi thì ngài Nàgasamlà, khi thì ngài Nàgita… thay nhau đảm nhận công việc thị giả. Đến năm 56 tuổi, vì quán sát căn cơ của chúng sanh và cũng như để thuận lợi hơn trọng cuộc hoằng hoá tử chúng nên Đức Thế tôn muốn có một vị thị giả thường trực. Trong lúc ấy, các vị đại đệ tử nhu ngài Xá lợi Phất, Mục Kiền Liên, Kiều Trần Như… đưa ra nhiều ứng viên có khả năng đảm nhiệm công việc thị giả nhưng không được Phất chấp nhận.Cuối cùng, chư vị Tỳ kheo đề nghị ngài A Nan làm thị giả. Trước tình hình này, ngài A Nan nhận lời nhưng với một lời thỉnh cầu mang tính điều kiện. Đó là ngài sẽ đảm nhận trọng trách làm thị giả cho Đức Thế Tôn nếu như Thế Tôn chịu từ chối bốn việc và chấp nhận bốn liên quan đến A Nan.

Bốn việc từ chối đó là: không cho A Nan y, đồ ăn, một phòng riêng và được mời ăn, vì nếu không từ chối thì ảnh hưởng của tứ chúng đối với ngài A Nan sẽ không tốt. Bốn việc chấp nhận: Thứ nhất, nếu A Nan được mời thọ trai thì Thế Tôn sẽ sẵn lòng đi dự.Thứ hai, Thế Tôn sẵn lòng gặp những người ở xa đến và do A Nan giới thiệu. Thứ ba, Thế Tôn chấp nhận cho A Nan tiếp kiến nếu như A nan gặp phải những sự phân vân, khó xử. Thứ tư, Thế Tôn sẽ giảng lại những bài kinh khi A Nan vắng mặt. (Theo Tiểu Bộ kinh III, Trưởng Lão Tăng Kệ, chương 17, phẩm Ba mươi kệ, phần Ananda, NXB. tP.HCM, 2000, tr.456). Trong bốn điều chấp nhận mà ngài A Nan đã đưa ra, đáng chú ý nhất là điều cầu thỉnh sau cùng: Phật sẽ giảng lại những bài kinh mà A Nan chưa được nghe. Cũng tương tự như thế, trong kinh Đại Bát Niết Bàn (Bắc bản), ngài Xá Lợi Phất đã khẳng định với tứ chúng rằng, ngài A Nan hầu Phật trên 20 năm, có tám điều không thể nghĩ bản, điều thứ năm là cầu thỉnh Đức Phật thuyết cho ngài nghe 12 bộ kinh (Ngũ giả, tự sự ngã lai trì ngã sở thuyết thập nhị bộ kinh), (Đại Bát Niết Bàn kinh, quyển 40, Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh).

Như vậy, căn cứ vào Tiểu Bộ kinh và Đại Bát Niết Bàn kinh đều đề cập đến một lời thỉnh cầu rất mực quan trọng: xin Đức Phật thuyết cho A Nan nghe những bài pháp mà A Nan không được dự trong các pháp hội trước đó. Đây là một trong những lời thỉnh cầu quan trọng để rồi từ đây, ngài A Nan có đủ điều kiên nhân duyên nghe lại toàn bộ pháp thoại mà Đức Phật đã thuyết, không loại trừ những bài pháp mà Đức Phật đã thuyết trước lúc A Nan xuất gia. Mặt khác, cũng nên lưu ý rằng, với tư chất thông tuệ, ngài A Nan có một khả năng ghi nhớ tất cả những lời giảng dạy của Phật. Điều này, Đức Phật đã khẳng định như sau: “Tỳ kheo bậc nhất trong chúng Thanh văn của Ta: biết thời, rõ vật, gặp vật không nghi, ghi nhớ không quên, nghe nhiều sâu rộng, kham nhẫn kính thờ người tên là “Tỳ khoe A Nan” (Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tăng Nhất A Hàm I, Viên NCPHVN ấn hành, 1997, tr.69). Do đó, dường như trong tất cả các kinh văn mà chúng ta thường trì tụng sau này đều được khởi đầu bằng sự khẳng định của A Nan: “tôi nghe như vầy” và sự khẳng định đó hoàn toàn đầy đủ cơ sở vì chính bản thần ngài A Nan đã nghe.

Suốt hai mươi lăm năm trời, bất kể thời gian, sự khắc nghiệt của thời tiết, điều kiện sức khoẻ của bạn thân mình:ngài A Nan đã bất chấp tất cả để thực hiện trọn vẹn sức mạng thị giả hầu Phật. Ngoài công việc thường nhật hầu cận Đức Thế Tôn, ngài A Nan còn là một sự giả truyền đạt thông tin cho tứ chúng, khởi phát nhân duyên để Phật cho phép nữ giới được xuất gia, giúp đỡ huynh đệ đồng tu trong lúc khó khăn, bệnh tật… và trên hết, công hạnh vĩ đại nhất của ngài A Nan là nhờ khả năng ghi nhớ vô song của mình làm pháp vị của Đức Thế Tôn vẫn còn lưu lộ và làm tươi nhuận nhân gian.

Nguồn tin: theo Phật Pháp Bách Vấn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây